SKKN Công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp 10D trường THPT Trần Phú

SKKN Công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp 10D trường THPT Trần Phú

 Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục luôn chú trọng việc giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ dục cho học sinh ở tất cả các cấp học, đặc biệt coi trọng giáo dục đạo đức cho thế hệ tương lai của đất nước. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng dạy: "Đạo đức là cái gốc rất quan trọng", “Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định”, “Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức là người vô dụng”.

Thực tế đổi mới giáo dục để đào tạo con người cho thời đại mới đang đặt ra những yêu cầu mới cho người giáo viên. Đảng ta đã xác định, “để đảm bảo chất lượng giáo dục phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo”. Như vây, người giáo viên nói chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.

Trong năm học 2015 – 2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 10D. Qua tìm hiểu, tôi biết được rất nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Có những em cố gắng phấn đấu học tập, có động cơ học tập rõ ràng; nhưng cũng có em lại chưa có tinh thần vượt khó. Một số học sinh đi học xa nhà, ở trọ nên thiếu sự giám sát của gia đình, thường xuyên bỏ học đi chơi, đánh điện tử,. Một số phụ huynh mải mê đi làm mà ít quan tâm đến việc học hành của con em mình. Chính những việc này đã ảnh hưởng rất lớn đến ý thức đạo đức cũng như ý thức học tập của các em.

 

docx 19 trang thuychi01 5460
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp 10D trường THPT Trần Phú", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài...Trang 2
2. Mục đích nghiên cứuTrang 3
3. Đối tượng nghiên cứu...Trang 3
4. Phương pháp nghiên cứu.Trang 3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệmTrang 4
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệmTrang 5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.Trang 8
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệmTrang 16
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luậnTrang 17
2. Kiến nghị..Trang 17
 Tài liệu tham khảo.Trang 19
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
 	Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục luôn chú trọng việc giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ dục cho học sinh ở tất cả các cấp học, đặc biệt coi trọng giáo dục đạo đức cho thế hệ tương lai của đất nước. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng dạy: "Đạo đức là cái gốc rất quan trọng",  “Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định”, “Người có đức mà không có tài thì  làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức là người vô dụng”.
Thực tế đổi mới giáo dục để đào tạo con người cho thời đại mới đang đặt ra những yêu cầu mới cho người giáo viên. Đảng ta đã xác định, “để đảm bảo chất lượng giáo dục phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo”. Như vây, người giáo viên nói chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. 
Trong năm học 2015 – 2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 10D. Qua tìm hiểu, tôi biết được rất nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Có những em cố gắng phấn đấu học tập, có động cơ học tập rõ ràng; nhưng cũng có em lại chưa có tinh thần vượt khó. Một số học sinh đi học xa nhà, ở trọ nên thiếu sự giám sát của gia đình, thường xuyên bỏ học đi chơi, đánh điện tử,... Một số phụ huynh mải mê đi làm mà ít quan tâm đến việc học hành của con em mình. Chính những việc này đã ảnh hưởng rất lớn đến ý thức đạo đức cũng như ý thức học tập của các em.
Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi nhận thức rất rõ vai trò quan trọng của người giáo viên chủ nhiệm lớp đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Người giáo viên chủ nhiệm không chỉ là một người bạn để học sinh trao đổi tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của mình; là một người cố vấn tinh thần cho các em trong việc giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong học tập, giao tiếp và cuộc sống mà người giáo viên chủ nhiệm còn là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp tốt các lực lượng giáo dục trong các hoạt động xã hội mang lại hiệu quả cao nhất. Người giáo viên chủ nhiệm lớp có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách, phương pháp học tập và động cơ phấn đấu của học sinh trong lớp. Nhìn thầy cô chủ nhiệm sẽ biết ngay học sinh lớp đó như thế nào, cũng như nhìn học sinh sẽ thấy được kết quả các thầy cô chủ nhiệm rèn giũa những học sinh của mình ra sao.
Làm thế nào để các em chăm ngoan học giỏi, không bỏ học , đến trường đều đặn? Làm thế nào để các em không sa đà vào các trò chơi điện tử, vào thế giới ảo trên Internet mà chuyên tâm vào việc học hành? Làm thế nào để các em phát huy được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc? Những câu hỏi đó luôn làm tôi phải trăn trở, suy nghĩ tìm ra những biện pháp phù hợp nhất, hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp chủ nhiệm của mình. Chính vì vậy, để nghiên cứu nhằm mục đích trao đổi và học hỏi thêm một số kinh nghiệm trong công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm với các đồng nghiệp giúp bản thân mình được hoàn thiện hơn, tôi đã mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “ Công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp 10D trường THPT Trần Phú”.
2. Mục đích nghiên cứu
 	Đánh giá được thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường và đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm, thông qua đó đề ra các biện pháp giáo đạo dức học sinh một cách có hiệu quả giúp cho các em trở thành những công dân có ích trong xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu
	3.1. Nghiên cứu thực tế đối tượng học sinh lớp 10D trường THPT Trần Phú.
 3.2. Từ thực trạng, nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm.
4. Phương pháp nghiên cứu
	4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
 	Nghiên cứu các tài liệu của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục và đào tạo, các chỉ thị của Bộ giáo dục và đào tạo cùng các hướng dẫn của các ngành có liên quan.
	4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
	Tìm hiểu thông tin học sinh qua học bạ, qua các học sinh khác, qua tiếp xúc nói chuyện trực tiếp với học sinh.
	4.3. Phương pháp thông kê, xử lí số liệu
	So sánh, thống kê chất lượng đạo đức học sinh trong từng tháng, từng học kì.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong mục tiêu toàn diện của nhà trường đã xác định : đạo đức là phẩm chất quan trọng của nhân cách, là nền tảng xây dựng thế giới tâm hồn của mỗi con người. Ý thức đạo đức là ý thức của mỗi cá nhân về mục đích cuộc sống và mối quan hệ của các cá nhân trong xã hội. Ý thức đạo đức cá nhân được hình thành nhờ có giáo dục, trên cơ sở truyền thống gia đình, truyền thống đạo đức, văn hóa dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội.
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi vị thành niên. Đây là thời kì chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, các em đang phát triển mạnh mẽ về thể chất, tâm lí nên các em có xu hướng tự khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm chủ bản thân. Đôi khi sự chỉ bảo, kiểm tra, quan sát của người lớn làm các em cảm thấy khó chiu, không hài lòng. Đây cũng là giai đoạn các em hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ con người với con người và con người với tự nhiên. Trong giai đoạn hiện nay, khi quá trình hội nhập đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, khi việc phá hoại môi trường đang dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đe dọa đến sự tồn vong của nhận loại thì nội dung đạo đức không chỉ là lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu con người, lòng nhân ái nói chung mà phải bao gồm các vấn đề sau:
 - Giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như : lòng yêu nước, nhân ái, tự lực tự cường, cần kiệm liêm chính, hiếu học, thủy chung, tình nghĩa, kính trọng ông bà, bố mẹ, thầy cô, người cao tuổi,.
 - Bảo vệ môi trường, bảo vệ sinh thái.
 - Hiểu biết về vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình, chống bạo lực và các tệ nạn xã hội.
 - Đấu tranh vì một thế giới hòa bình, ổn định, bình đẳng, dân chủ và bền vững. 
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng vấn đề trong xã hội và nhà trường
 Trong những năm gần đây, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới mở ra cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo. Trong nhà trường, các tổ chức Đoàn thể đã có nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Ngành Giáo dục và Đào tạo đã đạt được những thành quả quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của ngành :”Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực - Bồi dưỡng nhân tài" cho đất nước. Tuy nhiên, những hạn chế, tác động xấu từ môi trường của thời kỳ mở cửa, hội nhập, những tư tưởng văn hoá xấu, ngoại lai; mặt trái của cơ chế thị trường có cơ hội xâm nhập. Các tệ nạn xã hội có nơi, có lúc đã xâm nhập vào trong trường học. Tình trạng vi phạm đạo đức trong thanh, thiếu niên và học sinh ngày càng có xu hướng gia tăng, các hành vi vi phạm đạo đức của học sinh diễn ra ở nhiều góc độ: vi phạm pháp luật, đánh nhau bằng vũ khí, uống rượu bia, cờ bạc, trộm cắp,; một số hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức như: không vâng lời cha mẹ, người lớn, vô lễ với thầy cô, thiếu kính trên nhường dưới, sống hưởng thụ, lười học tập và lao động, thiếu ý thức rèn luyện, sa đà vào thế giới ảo và các trò chơi điện tử trên Internet,.Chính những hành vi này đã tác động xấu tới các giá trị đạo đức truyền thống, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, gây nỗi đau cho các bậc làm cha làm mẹ. Do đó, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trở thành vấn đề cần thiết và cấp bách cho mỗi gia đình, nhà trường và toàn xã hội. 
Trên thực tế vẫn còn những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức vụ của GVCN, vần còn tồn tại những phương pháp giáo dục lỗi thời không phù hợp với bối cảnh hiện nay như : GVCN nóng nảy, mất bình tĩnh, có những lời nói xúc phạm học sinh, thậm chí đánh học sinh, đuổi các em ra khỏi giờ học,Vẫn còn GVCN áp dụng những cách phạt học sinh vi phạm như : bắt viết bản kiểm điểm 100 lần, bắt học sinh quỳ trước lớp, bắt học sinh dọn nhà vệ sinh của trường , Những phương pháp giáo dục này đôi khi phản tác dụng, càng làm các em ghét GVCN của mình dẫn đến chán học rồi bỏ học; có em cảm thấy bị xúc phạm quá quay ra phản kháng GVCN. Ngược lại, có những thầy cô giáo chủ nhiệm quá dễ dãi với học sinh, buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm với học sinh và tập thể lớp để cho một số học sinh liên tiếp tái phạm nội quy của trường lớp, thậm chí kích động, lôi kéo nhiều học sinh khác trong lớp theo mình. Bên cạnh đó, sự phối kết hợp giữa GVCN với gia đình, với các đoàn thể khác trong và ngoài nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh đôi khi chưa chặt chẽ và hiệu quả. Phụ huynh chưa nắm rõ được thời gian, thời khóa biểu của con em mình trên trường; Đoàn thanh niên hay các tổ chức trong nhà trường chưa biết chính xác được mức độ vi phạm của học sinh như thế nào để có biện pháp giáo dục phù hợp,..
Trường THPT Trần Phú – Nga Sơn trong năm học này có gần 1000 học sinh ở 3 khối lớp. Hoàn cảnh kinh tế gia đình của các em chủ yếu là làm nông nghiệp, cuộc sống còn nhiều khó khăn nên phụ huynh ít có thời gian và điều kiện quan tâm đến việc học hành của con mình. Có nhiều phụ huynh phải đi làm ăn xa nên để các em ở nhà một mình hoặc với ông bà, chú bác. Cũng có một số phụ huynh lại quá chiều chuộng con, chưa thật sự nghiêm khắc với con cái. Chính sự thiếu quản lí, giám sát học sinh từ phía gia đình đã dẫn đến một số em có đạo đức lối sống, lời ăn tiếng nói, ý thức chấp hành kỷ luật chưa tốt. Ngoài ra, quan niệm giáo dục của một số gia đình chưa thực sự tích cực: Họ phó mặc việc giáo dục con cái của họ cho nhà trường, thầy cô giáo, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm. Vẫn còn có nhiều phụ huynh học sinh còn mặc cảm, ngại ngần không dám gọi điện hay liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình của con em mình ở trường.
2.2. Đặc điểm lớp chủ nhiệm
Đầu năm học 2015- 2016, tôi được BGH Trường THPT Trần Phú phân công chủ nhiệm lớp 10D. Đây là một lớp đại trà với sĩ số 47 học sinh. Kết quả và học lực và hạnh kiểm của các em trong năm học lớp 9 như sau:
Lớp 10D
Hạnh kiểm
Học lực
T
K
TB
Y
K
G
K
TB
Y
K
47 hs
25
16
5
1
0
2
22
23
0
0
 Về giới tính, lớp tôi có 17 học sinh nam và 30 học sinh nữ. Đặc biệt lớp tôi có 21 học sinh thuộc diện chính sách, có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn... 
Sau khoảng 2 tuần làm chủ nhiệm lớp, tiếp xúc với học sinh, tôi thấy được những thuận lợi và khó khăn trong công tác chủ nhiệm sau: 
+ Thuận lợi: 
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của BGH Trường THPT Trần Phú và các tổ 
chức đoàn thể trong nhà trường.
 - Lớp có số lượng học sinh nam ít hơn học sinh nữ nên nhìn chung các em ngoan hơn, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức hơn so với các lớp khác. 
 - Học sinh trong lớp đoàn kết và có ý thức xây dựng tập thể.
+ Khó khăn : 
 - Do lớp có sĩ số học sinh đông nên việc quản lí, sát sao với học sinh có phần hạn chế.
 - Nhiều học sinh xa trường nên các em phải ở trọ hoặc ở lại buổi trưa trong trường những hôm học bồi dưỡng buổi chiều, thiếu sự quan tâm giám sát của gia đình : Nguyễn Văn Đô ( Nga Điền), Mai Thị Trang ( Nga Điền), Đào Thị Ánh ( Nga Điền), Mai Thị Duyên ( Nga Thái)......
 - Một số học sinh phải sống với ông bà,chú bác do bố mẹ đi làm ăn xa hoặc chỉ ở với bố hoặc mẹ do bố mẹ ly dị nên thiếu thốn tình cảm : Lê Thị Thắm ( ở với bà, bố mẹ li dị), Bùi Văn Sơn( ở với mẹ, bố mẹ li dị ), Mai Thị Kiều Trang ( ở với bà, bố mẹ làm trong miền Nam ),......... 
 - Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện hộ nghèo : Mai Thị Khuyên, Mai Thị Trang, Nguyễn Thị Diệu,  
 - Sự định hướng học tập từ phía gia đình còn hạn chế.
Sau 1 tháng chủ nhiệm lớp 10D, tôi nhận ra học sinh lớp tôi tồn tại những khuyết điểm sau đây:
 - Một số học sinh có biểu hiện “ không hài lòng” với GVCN, GV bộ môn và cán bộ lớp khi bị nhắc nhở vi phạm. 
 - Một số học sinh thường xuyên nghỉ học vô lí do như: Nguyễn Quang Sơn , Phạm Văn Hải, Nguyễn Thị Hạnh, Lê Trung Kiên,..
 - Một số học sinh còn nói tục trong khi nói chuyện với bạn bè.
 - Một số học sinh nam thường xuyên vào quán đánh điện tử sau giờ học hoặc nói dối bố mẹ đi học để đi đánh điện tử như em Nguyễn Hoàng Long, Trịnh Văn Tài, Phạm Văn Hải,
- Một bộ phận học sinh có ý thức học tập chưa tốt. Trong giờ học còn nói chuyện riêng, không ghi bài, có biểu hiện gian lận trong giờ kiểm tra,.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Tăng cường việc quản lí học sinh lớp chủ nhiệm
3.1.1. Tìm hiểu thông tin cá nhân của học sinh lớp chủ nhiệm
Trong buổi đầu tiên tập trung lớp 10D, tôi đã phát cho mỗi học sinh một tờ phiếu để tìm hiểu thông tin của học sinh. Tờ phiếu có mẫu như sau:
PHIẾU THÔNG TIN
 - Họ và tên:.............................
 - Sinh ngày......tháng......năm........
 - Nơi sinh............ 
 - Nơi ở hiện tại:
 - Họ tên cha:....................Nghề nghiệp................... Số điện thoại:.
 - Họ tên mẹ:......................Nghề nghiệp................... Số điện thoại:
 - Hoàn cảnh gia đình:................................................................................................ 
 - Năngkhiếu:.....................
 - Sở thích:............................................................................ 
 - Thành tích đạt được năm trước:.............................................................................
 - Những môn học yêu thích:..................................................................................... 
 - Nguyện vọng......................................................................................................... 
Thông qua phiếu điều tra thông tin cá nhân, tôi đã nắm được đặc điểm về hoàn cảnh gia đình, tâm lý, năng lực, sở trường và nguyện vọng của học sinh lớp mình. Việc tìm hiểu này sẽ giúp tôi kết hợp tốt với gia đình học sinh trong công tác giáo dục đạo đức học sinh, từ đó có những biện pháp quản lí, giáo dục phù hợp.
3.1.2. Sử dụng sổ liên lạc điện tử cập nhật thông tin của học sinh 
 	Chúng ta đang sống trong thời đại của công nghệ thông tin, con người cần phải cập nhật thông tin hàng ngày, hàng giờ và người giáo viên chủ nhiệm cũng rất cần cập nhật thông tin về tình hình học sinh lớp mình cho phụ huynh biết. Trong năm học 2015 -2016, trường THPT Trần Phú sử dụng sổ liên lạc điện tử Vnedu.vn nhằm trao đổi thông tin giữa nhà trường, GVCN và phụ huynh học sinh. Nhờ có sổ liên lạc điện tử này mà phụ huynh nhanh chóng nắm bắt được các thông tin, thông báo từ nhà trường và GVCN về tất cả các vấn đề liên hoan đến tình hình học tập và rèn luyện của học sinh định kì theo ngày, tháng, học kì, năm học. 
Do lớp tôi có một số em có thường xuyên nói dối bố mẹ, bỏ học đi chơi nên tôi cập nhật mục điểm danh học sinh theo ngày để phụ huynh học sinh biết. Những hôm nào trường nghỉ học tôi nhắn tin thông báo về gia đình. Hàng tuần, tôi đều viết nhận xét cụ thể tình hình học tập và rèn luyện đạo đức của học sinh gửi cho phụ huynh. Nhờ đó, các em có ý thức tự giác chấp hành nội quy của trường lớp hơn. Một số em không dám nói dối bố mẹ để đi chơi vào những hôm trường nghỉ học nữa. Nắm bắt được tâm lí học sinh là thích được khen, thích được bố mẹ biết được những mặt tốt, những ưu điểm, thành tích của mình ở trường nên bên cạnh việc thông báo những học sinh vi phạm nội quy nhà trường, sau mỗi tuần tôi đều gửi tin nhắn về gia đình những học sinh có sự tiến bộ, biết khắc phục khuyết điểm. Chính sự thông báo kịp thời này đã tạo cho các em có động lực để phấn đấu, vươn lên hơn nữa trong học tập và rèn luyện.
3.2. Giáo dục đạo đức học sinh trong tiết sinh hoạt lớp
 Theo thời khóa biểu, tiết sinh hoạt lớp cuối tuần là tiết 5 của ngày thứ 7. Đối với một GVCN như tôi, đây là một tiết rất quan trọng, không thể thiếu được trong một tuần học tập và rèn luyện của học sinh. Bởi trong tiết sinh hoạt này, tôi sẽ biết được tất cả những ưu điểm mà từng thành viên của lớp cũng như của từng tổ đạt được trong tuần và những khuyết điểm còn tồn tại của các em. Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để tôi gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng từ phía học sinh để từ đó có những biện pháp thích hợp nhằm đưa phòng trào thi đua của lớp đi lên. 
	Tôi tổ chức tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm theo trình tự như sau:
Hoạt động 1: Lớp trưởng điều hành sinh hoạt lớp. GVCN là người giám sát, theo dõi hoạt động 
	- Lớp trưởng yêu cầu 4 tổ trưởng đứng lên đọc bảng theo dõi các thành viên trong tổ trong tuần qua. 
 - Lớp trưởng yêu cầu các lớp phó tổng hợp các mặt nêu trước lớp: Về học tập( lớp phó học tập báo cáo), về chuyên cần( lớp trưởng báo cáo), vệ sinh( lớp phó lao động báo cáo), văn- thể mĩ( Lớp phó phụ trách văn thể báo cáo). 
 - Lớp trưởng thông qua bảng xếp loại thi đua giữa các tổ, cá nhân thông báo trước lớp. Qua đó nêu lên được những mặt mạnh, mặt hạn chế cần khắc phục ở từng tổ. Đồng thời tuyên dương những cá nhân xuất sắc và phê bình những cá nhân chưa tốt. 
Ảnh: Tiết sinh hoạt cuối tuần tại lớp 10D
Hoạt động 2: GVCN nhận xét, đánh giá học sinh và hoạt động của lớp trong tuần qua. 
	- GVCN dựa trên Sổ đầu bài, những lời nhận xét từ lớp trưởng và các tổ trưởng nêu lên được sự tiến bộ của các học sinh trong lớp, tuyên dương những em có ý thức học tập và đạo đức tốt.
 - GVCN động viên các em cố gắng tích cực trong việc phát huy các khả năng và năng lực sẵn có của mình để đưa lớp trở thành một trong những tập thể lớp xuất sắc của nhà trường. 
 - Nhắc nhở, phê bình những học sinh vi phạm. Đối với những học sinh mặc lỗi lần đầu, tùy theo mức độ mà GVCN tha thứ hoặc áp dụng hình thức phạt là yêu cầu làm trực nhật lớp trong tuần sau. Đối với những học sinh nhiều lần vi phạm nội quy, GVCN thi hành kỷ luật nghiêm khắc đối với các em đó: yêu cầu học sinh viết bản tự kiểm điểm, có ý kiến của phụ huynh; thông báo về gia đình, đình chỉ học 3 ngày hoặc yêu cầu phụ huynh đên trường gặp GVCN để trao đổi về tình hình của học sinh. Đồng thời, GVCN cũng thông báo trước lớp: Nếu học sinh nào dù bị phạt nhiều lần mà không có sự chuyển biến tích cực thì tập thể lớp sẽ làm biên bản gửi lên Hội đồng kỉ luật của nhà trường.
Hoạt động 3: Lập kế hoạch hoạt động tuần tới. 
 - GVCN lập kế hoạch hoạt động của lớp trong tuần tới theo kế hoạch của Nhà 
 trường, Đoàn trường đề ra. 
 - Phân công cá nhân học sinh thực hiện. 
Hoạt động 4: Học sinh phát biểu ý kiến, GVCN phản hồi và dặn dò học sinh
 Giáo viên chủ nhiệm trả lời những thắc mắc của học sinh khi các em có nhu cầu. Cuối cùng, tôi luôn nhắc nhở các em sang tuần học mới phải ngoan hơn, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, trong giờ học chú ý nghe thầy cô giảng bài, không nói chuyện riêng, không sử dụng điện thoại, không nói tục khi nói chuyện với bạn bè, kính trọng lễ phép với thầy cô giáo,..Tôi cũng thường kể cho học sinh nghe những câu chuyện về tấm gương người tốt – việc tốt, những học sinh nghèo vượt khó để từ đó, các em có thể tự rút ra được bài học về lòng nhân ái, về ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống. 
3.3. Giáo dục đạo đức cho học sinh thô

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_cong_tac_giao_duc_dao_duc_hoc_sinh_lop_10d_truong_thpt.docx