SKKN Các biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT

SKKN Các biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT

Trong việc bàn về vấn đề tự học, tự sáng tạo của học sinh (HS), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.

Đối với khoản 2, Điều 5, chương I của Luật giáo dục nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.

Trên thực tế cho thấy tự học là hoạt động tất yếu gắn liền với quá trình học tập. Nhưng thái độ, kỹ năng, phương pháp tự học của từng HS là khác nhau dẫn đến chất lượng học tập cũng khác nhau. Do đó, nâng cao năng lực tự học cho HS là một việc làm cần thiết và quan trọng của các nhà trường. Hoạt động học tập là một thành tố của quá trình dạy – học. Cho nên phương pháp dạy học, nội dung dạy học, điều kiện và môi trường dạy học ảnh hưởng đến quá trình học tập và năng lực tự học của HS. Vì vậy, trong quá trình quản lý dạy – học phải hướng đến mục tiêu quan trọng là quản lý hoạt động tự học (HĐTH) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

 

doc 17 trang thuychi01 24461
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Các biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ LỢI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC 
CỦA HỌC SINH LỚP CHỦ NHIỆM BẬC THPT
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
 Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác Chủ nhiệm
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
1
MỞ ĐẦU
3
1.1.
Lí do chọn đề tài
3
1.2.
Mục đích nghiên cứu
3
1.3.
Đối tượng nghiên cứu
4
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
4
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
5
2.1.
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
5
2.2.
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
7
2.3.
Các giải pháp đã sửa dụng để giải quyết vấn đề
9
2.4.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
12
3
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
13
3.1.
Kết luận
13
3.2.
Kiến nghị
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong việc bàn về vấn đề tự học, tự sáng tạo của học sinh (HS), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Đối với khoản 2, Điều 5, chương I của Luật giáo dục nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2009) đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Trên thực tế cho thấy tự học là hoạt động tất yếu gắn liền với quá trình học tập. Nhưng thái độ, kỹ năng, phương pháp tự học của từng HS là khác nhau dẫn đến chất lượng học tập cũng khác nhau. Do đó, nâng cao năng lực tự học cho HS là một việc làm cần thiết và quan trọng của các nhà trường. Hoạt động học tập là một thành tố của quá trình dạy – học. Cho nên phương pháp dạy học, nội dung dạy học, điều kiện và môi trường dạy học ảnh hưởng đến quá trình học tập và năng lực tự học của HS. Vì vậy, trong quá trình quản lý dạy – học phải hướng đến mục tiêu quan trọng là quản lý hoạt động tự học (HĐTH) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Có thể nói rằng , hiện nay ở trường THPT có nhiều học HS thực hiện tự học không đúng mục đích, đầu tư thời gian cho những trò chơi vô bổ như game online, chat, ... Sự biểu hiện yếu kém trong nhận thức, thái độ cũng như kỹ năng, phương pháp và năng lực tự học. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên (GV) chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới của giáo dục trung học phổ thông (THPT). Những ảnh hưởng chủ quan về nhận thức và tay nghề của đội ngũ GV, về ý thức trách nhiệm của gia đình và HS cần phải được phân tích nhằm xây dựng các biện pháp thích hợp, giải quyết tốt các mâu thuẩn giữa lý luận và thực tiễn về phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo nhằm nâng cao năng lực tự học cho HS.
Xuất phát từ vai trò, vị trí của bản thân và nhu cầu HĐTH hiện nay của HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi, tôi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Các biện pháp nâng cao chất lượng tự học của học sinh lớp chủ nhiệm bậc THPT ”, với mong muốn góp phần xây dựng các biện pháp, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về học tập của HS, giảng dạy của GV và công tác quản lý việc tự học của lớp chủ nhiệm bậc THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn quản lý dạy học và thực trạng HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi, xác lập các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của HS.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động tự học nhằm nâng cao chất lượng tự học của HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi 
Quá trình quản lý đối với HĐTH của HS trường THPT Nguyễn Thị Lợi
Chủ thể quản lý HĐTH gồm giáo viên chủ nhiệm (GVCN), giáo viên bộ môn (GVBM), Cha mẹ học sinh (CMHS) và sự phối hợp các tổ, nhóm cá nhân học sinh đang học tập tại lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trên thực tế , nói đến học tập là nói đến hình thức dạy - học và tự học. Việc học phải đi đôi với việc dạy và việc dạy phải hướng đến người học, đó là quá trình tương tác giữa GV và HS. Xét cho cùng, trong quá trình dạy học là giúp HS tự học để hoàn thiện và phát triển nhân cách của cá nhân nhằm đáp ứng với các chuẩn mực và nhu cầu trong sự phát triển chung của thời đại. Tự học gắn với cuộc đời của mỗi con người. Một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục đã đề cập đến vấn đề tự học dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trên thế giới
 Ngay từ thời cổ đại, Khổng Tử , Aristot là các nhà sư phạm kiệt xuất đã cho rằng: Dạy và học là phải trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức của HS và đòi hỏi HS phải biết kết hợp với suy nghĩ, biết năng động trong học tập. Cần cố gắng gợi mở để HS tự học trong hoạt động học tập của mình.
- Đến thời cận đại, nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc Komenxky đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng”. Năm 1657, ông đã hoàn thành tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại” trong đó nêu rõ: “Việc học hành, muốn trau dồi kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên phù hợp với trình độ”. 
Trong giai đoạn hiện đại, các nhà giáo dục học đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục và đã khẳng định vai trò to lớn của tự học Rousseau khi xây dựng quan điểm dạy học cũng cho rằng: “cần hướng cho học sinh tự nắm lấy kiến thức bằng cách tự tìm hiểu, tự khám phá, tự tìm tòi và sáng tạo,...”
 Như vậy, tự học như là một phương thức để con người lĩnh hội tri thức của nhân loại. Từ những thập niên 30 – 40 của thế kỷ XX, trong cuốn “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” nhà sư phạm nổi tiếng Makiguchi Cho rằng “Giáo dục xét như một quá trình hướng dẫn tự học, động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng”.
Ở Việt Nam
 Truyền thống hiếu học và tự học đã được khẳng định qua các vị khoa bảng như Nguyễn Du, Chu Văn An, Lê Quý Đôn... Các thế hệ cha ông chúng ta đã vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức bằng nổ lực học tập và tự học.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một tấm gương sáng về tinh thần tự học và tự rèn luyện. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác Hồ đã căn dặn: “Về cách học, phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo thêm vào”. Tư tưởng của Người về giáo dục đã được vận dụng, quán triệt trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II – Ban Chấp hành Trung ương (BCH TW) Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học”, “Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên, rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên...”.
 Khi phát biểu chỉ đạo đối với ngành giáo dục, Nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng Đỗ Mười đã nhấn mạnh: Tự học – tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau; đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
Có thể nói rằng ,đã từ lâu tự học đã được bàn luận và quan tâm của rất nhiều nhà khoa học, quản lý giáo dục.
Cơ sở thực tiễn về HĐTH của HS ở trường THPT Nguyễn Thị Lợi
 Đa số học sinh trường THPT Nguyễn Thị Lợi còn những hạn chế sau:
Chất lượng tuyển vào lớp đầu cấp quá thấp về học tập.
Thói quen thụ động trong quá trình học tập, quen nghe, ghi, chép, nhớ và tái hiện lại những gì giáo viên nói.
Do chưa hình thành kỹ năng, phương pháp tự học, nên kiến thức của hầu hết HS tỏ ra hẫng hụt ngay từ đầu năm học, không nắm được các kiến thức đã học một cách hệ thống và khoa học và hầu như không vận dụng được kiến thức. 
Giai đoạn chuẩn bị hoạt động tự học (lập kế hoạch, xác định mục đích nhiệm vụ tự học, tiến trình và thời gian cho hoạt động tự học) đa số HS không thực hiện được.
Để tìm hiểu thực tế về việc lập kế hoạch tự học của HS, bản đã tiến hành điều tra, quan sát, trò chuyện, trao đổi, thống kê... với một số HS và GV. Kết quả nhận được:
*Ý kiến tự đánh giá của HS: Có 70% HS tự nhận là có lập kế hoạch tự học; trong đó:
- Có đến 79% HS tự làm kế hoạch.
- Còn lại 21% HS có sự giúp đỡ của GV, lớp, cha, mẹ, anh, chị.
*Ý kiến của GV: Có 30,4% GV cho rằng HS có lập kế hoạch tự học. Trong đó:
 - HS lập kế hoạch tự học từng ngày: 68 % 
 - HS lập kế hoạch tự học từng tuần: 22 % 
- HS lập kế hoạch tự học từng tháng:	2,5 % 
- HS lập kế hoạch tự học từng học kỳ: 	4 % 
- HS lập kế hoạch tự học từng năm học: 	3,5% 
Về mức độ thực hiện kế hoạch đó:
- Thực hiện 100% kế hoạch đã vạch ra: 	2,1% 
- Thực hiện 70% kế hoạch đã vạch ra: 	28,9% 
- Thực hiện 50% kế hoạch đã vạch ra: 	42% 
- Chưa thực hiện: 	27% 
Qua ý kiến GV và tự đánh giá của HS cho thấy có sự chênh lệch về việc HS có lập kế hoạch tự học hay không lập kế hoạch.
Hầu như các em nhận thức được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch tự học, nhưng các em chưa có kỹ năng lập kế hoạch tự học. Do đó, hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch tự học cho HS là một vấn đề mà GVBM và GVCN cần quan tâm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua điều tra có 70% HS tự học một mình. Trong đó có một số tự học theo ngẫu hứng, một số có vạch kế hoạch học môn gì và nội dung tự học do chính bản thân tự xác định. Tự học theo hình thức này có rất nhiều em gặp nhiều câu hỏi không trả lời được và mất nhiều thời gian để tìm câu trả lời, có lúc bế tắc, gián đoạn việc tự học và không hứng thú.
Có 51% HS học theo nhóm bạn, thảo luận những vấn đề về môn học mà cá nhân không tự giải quyết được. Hình thức này đã mang lại hiệu quả và phát huy cao tính tổ chức, kỹ luật. Kết quả mang lại là các bạn trong nhóm hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn các vấn đề cần giải quyết của bài học cũng như rèn luyện được tính độc lập, tự chủ và hợp tác nhóm.
Thực tế cho thấy HS có thói quen ngày mai học môn gì thì hôm nay học môn đó, chưa xếp lịch tự học hợp lí, không có mục đích đặt ra từ trước, không có ý chí tự mình phải khép vào khuôn khổ thực hiện việc học tập, thích thì học và không thích thì thôi. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng tự học của HS.
Thực trạng về tiến trình thực hiện hoạt động tự học và thời gian tự học của lớp chủ nhiệm với sĩ số 45 em
Bảng Đánh giá thực trạng tiến trình tự học
TT
Tự học của HS được tiến hành
Mức độ
Thường xuyên
Không thường xuyên
Không bao giờ
SL
%
SL
%
SL
%
1
Học vào lúc sáng sớm
45
40
45
49
45
11
2
Học vào lúc rãnh rỗi
45
78
45
22
45
10
3
Học vào lúc đêm khuya 
45
10
45
30
45
30
4
Học khi chuẩn bị kiểm tra và thi
45
80
45
33
45
2
5
Ngày sau có giờ, có bài liên quan
45
61
45
28
45
7
Qua bảng khảo sát trên, chúng ta thấy rằng có đến 80% HS sử dụng thời gian tự học khi chuẩn bị cho kiểm tra, thi cử; có đến 70% tự học khi rãnh rỗi và 61% tự học khi ngày sau có giờ, bài liên quan là thường xuyên. Bên cạnh đó, có đến 10% là không bao giờ học lúc rãnh rỗi và 2% không bao giờ học khi chuẩn bị thi và kiểm tra. Điều này cho thấy một số em hầu như không có ý thức tự học ngoài giờ lên lớp và không có sự quan tâm nhắc nhỡ của mọi người trong gia đình.
Qua trao đổi với một số GV, đa số cho rằng việc sử dụng quỹ thời gian cho HĐTH hiện nay là chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong qua trình đổi mới phương pháp dạy học. Việc dạy thêm, học thêm của một số bộ môn do nhiều nguyên nhân khác nhau đã lấy đi nhiều thời gian của các em, nên quỹ thời gian còn lại là rất ít chỉ đủ để xem lại lý thuyết bài cũ, bên cạnh đó thì một số em chỉ biết giải trí chơi đùa qua phim ảnh, internet... và có chăng tự học chỉ đủ để nhằm đối phó với kiểm tra và thi cử.
 Những HS khá, giỏi thì việc tự học ở nhà cũng như trên lớp hay học thêm đều đạt mức độ khá tốt. Khả năng vận dụng tư duy chỉ tập trung ở các em có học lực giỏi. Tính tự lập trong học tập của các em là rất cao, biết cách tự học trong mọi hoàn cảnh, chịu khó suy nghĩ và tích cực học tập.
 Đa phần HS còn thụ động, không chịu khó suy nghĩ, thời gian dành cho học thêm quá nhiều mà lại không tích cực trong học tập. Nhiều HS chạy theo phong trào học thêm với bạn bè nhưng không có mục đích, không tự mình vận dụng trí tuệ, tri thức để giải quyết các bài tập cũng như không có thời gian để hấp thu bài giảng trên lớp. Sự ỷ lại trong học tập nhờ vào học thêm ở các thầy cô, mong muốn trúng tủ khi kiểm tra đạt điểm cao mà không quan tâm đến HĐTH của bản thân. Điều này, làm cho các em không nắm chắc kiến thức, sự hỏng kiến thức càng ngày càng tăng lên.
Khảo sát thực trạng về hoạt động tự học của học sinh
Kết quả điều tra cho thấy việc sử dụng các phương pháp vận dụng kiến thức để giải bài tập, hệ thống hóa và khái quát hóa kiến thức, làm đề cương và học theo đề cương, tự kiểm tra và đánh giá kết quả tự học chỉ sử dụng thỉnh thoảng. Những phương pháp này chỉ được sử dụng chủ yếu khi kiểm tra 1 tiết, thi học học kỳ và một số em là chưa bao giờ sử dụng các phương pháp này chiếm 16%. Điều này cho thấy sự hứng thú trong học tập của một số đông HS chưa chú trọng, chưa chịu khó động não, tìm tòi trong quá trình tự học, không phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập. Đặc biệt chưa biết phân tích, tổng hợp các vấn đề của bài học để nắm lấy cốt lỏi, trọng tâm qua từng bài học. 
Qua trao đổi một số HS có học lực khá trở lên các em đưa ra một số nhận định:
- Đối với các môn tự nhiên thì GV giảng dạy yêu cầu tự học cao quá nên phải đi học thêm và không còn thời gian để tự học.
- Đối với các môn xã hội thì chỉ cần học thuộc bài trước khi đến lớp và soạn bài như SGK là đủ và chỉ học đối phó khi chưa có điểm miệng mà thôi.
Còn đối với những HS trung bình – yếu thì các em do hỏng kiến thức, trong khi lên lớp thì GV chỉ tập trung hoàn thành tiết dạy mà chưa có sự động viên khuyến khích cũng như giúp đỡ. Nên không có hứng thú trong từng môn học và không quan tâm đến kết quả học tập của mình. 
Qua trao đổi với một số GV hầu hết cho biết HS có học bài ở nhà, làm bài theo yêu cầu của GV nhưng chỉ nhằm đối phó khi kiểm tra. Phần lớn HS chỉ học thuộc những phần mà được ghi chép ở trong vở hay trong SGK. Những vấn đề yêu cầu cần mở rộng về phân tích, tổng hợp hay vận dụng kiến thức để chứng minh diễn giải một vấn đề thì HS lúng túng, chỉ có vài em có được khả năng này. Tất cả các bộ môn học thì HS chỉ có thói quen học thuộc lòng. Phần lớn HS chưa gắn kết giữa lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào thực hành bộ môn. Các hoạt động tự nghiên cứu ít được HS sử dụng. 
* Từ thực trạng này, với vai trò là giáo viên chủ nhiệm đồng thời cũng như giáo viên trực tiếp giảng dạy các em cần phải có những yêu cầu học sinh một số quy định về học tập bộ môn nhằm từng bước xây dựng nền nếp và thói quen tự học. Những quy định về nếp tự học có khá nhiều. Ở đây, chỉ đề cập những vấn đề chủ yếu, có tính nguyên tắc, được coi như tổ chức, phương pháp, biện pháp có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quá trình học tập của học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Vấn đề cần đặt ra:
Với yêu cầu cấp thiết: Làm sao xây dựng học sinh tự học linh hoạt, sáng tạo, giúp các em có cách tự học, tự nghiên cứu để đạt kết quả tốt. Do đó, với tư cách là người quản lý trực tiếp của các em tôi chỉ tập trung và một số biện pháp quản lý của GVCN đối với các hoạt động hình thành phương pháp và kỹ năng tự học cho HS lớp chủ nhiệm trường THPT Nguyễn Thị Lợi.
Trong từng tiết học, nhiệm vụ của học sinh là phải tập trung học tập, phối hợp chặt chẽ với giáo viên xây dựng nếp tự học, ý thức học tập để cảm nhận một cách nhanh và tự tin trước lớp. Mạnh dạn đóng góp ý kiến, suy nghĩ của mình và tiết học sinh động. Để phát huy nếp tự học của học sinh trong giờ học chính khóa, phụ đạo, mỗi giáo viên phải thiết kế điều hành giờ dạy có khoa học logic theo hướng chủ động khám phá của HS, chính bản thân giáo viên phải chủ động và sáng tạo để khơi dậy sự hoạt động tích cực, sáng tạo của tất cả học sinh “tự học”. Nói chung người giáo viên tổ chức thao tác như thế nào để học sinh thực hiện được và vận dụng, chứ không chỉ đạo chung chung.
Ngoài giờ học chính khóa, cần phải có sự quan tâm động viên của nhà trường – gia đình – xã hội để các em có sự phân bố thời gian tự học, xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch tự học một cách có ý thức và thường xuyên.
2.3.2. Một số biện pháp thực hiện:
Đây là các biện pháp tác động trực tiếp đến HS nhằm hình thành kỹ năng và phương pháp tự học. Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Bước đầu trong tự học thường lúng túng, nhưng chính lúng túng lại là động lực thúc đẩy HS tư duy để thoát khỏi sự lúng túng và thành thạo lên. Khi đã thành thạo thì thường phát hiện vấn đề cần phải giải quyết để từ đó hình thành kỹ năng tự chiếm lĩnh tri thức. Nhân tố quan trọng để tự học đạt được kết quả tốt là hình thành và rèn luyện các kỹ năng, phương pháp tự học.
*Mục tiêu các biện pháp
Để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, mỗi HS cần tự rèn luyện phương pháp tự học. Đây vừa là phương pháp nâng cao hiệu quả học tập, vừa là là mục tiêu quan trọng trong học tập. Phương pháp tự học sẽ trở thành cốt lõi của phương pháp học tập. Đồng thời các em cũng rèn luyện các kỹ năng tự học bộ môn mới đạt được hiệu quả cao.
 GV cần nắm vững được hệ thống các kỹ năng, phương pháp tự học. Trên cơ sở đó có thể vận dụng các kỹ năng trong công tác tự học, tự nghiên cứu một cách khoa học. Từ nắm vững các kỹ năng tự học, GV hướng dẫn cho HS hình thành và phát triển vững chắc các kỹ năng tự học. Từ đó HS có thể lựa chọn, phối hợp các phương pháp tự học khoa học để hoàn thành các nhiệm vụ học tập ở mức độ cao nhất. 
Cần phải đổi mới phương pháp dạy học là nhằm tích cực hoá HĐTH, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực của HS. 
Rèn luyện cho HS có thói quen, phương pháp học, kỹ năng học, biết tự lực phát hiện vấn đề và giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi. 
 Hình thành cho HS động cơ thái độ học tập nghiêm túc, nâng cao trách nhiệm trong học tập, có ý thức tự giác, nhu cầu và thói quen tự kiểm tra, đánh giá. Hình thành được một môi trường học tập, thi đua sôi nổi và thúc đẩy nhau cùng tiến bộ.
*Các biện pháp
Biện pháp 1: Đổi mới công tác quản lý về hoạt động tự học của học sinh
- GVCN cần điều tra xem xét nguyện vọng của HS, xem xét rõ điều kiện kinh tế gia đình của HS, điều kiện tổ chức tự học cho HS tại trường và tại gia đinh.
- GVCN dựa trên cơ sở các quy định trong của văn bản Pháp luật, Điều lệ nhà trường, Điều lệ Ban đại diện CMHS, quy chế của ngành và thực tiễn điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, thực tiễn của nhà trường để xây dựng một quy định về tự học và quản lý các HĐTH của HS cho phù hợp.
- Chỉ đạo cho tập thể lớp thực hiện tốt phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Thành lập đội tự quản để quản lý, theo dõi HĐTH của HS tại trường và tại nhà.
- Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác quản lý của các tổ đối với việc tự học tập ở nhà .
Biện pháp 2: Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học trên lớp của giáo viên và phương pháp học tập của học sinh 
- GVCN cần phải đánh giá thực trạng đổi mới phương pháp dạy học và công tác quản lý đổi mới phương pháp dạy học trên các khâu trong quá trình dạy học: soạn giáo án, nội dung, phương pháp, phương tiện sử dụng, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS; mức độ khai thác, sử dụng phương tiện thiết bị trong dạy học. 
- GVCN cũng dự thảo các quy định, hướng dẫn về đổi mới phương pháp dạy học, bám sát với chủ trương đổi mới của Bộ GD&ĐT cùng với các điều kiện thực tế của nhà trường. 
+ Đưa ra các quy định về chuẩn bị cho dạy học: nghiên cứu tài liệu, soạn giáo án (xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đồ dùng) gắn với đối tượng HS của trường, chú trọng đến việc thiết kế bài giảng theo hướng giúp HS 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_cac_bien_phap_nang_cao_chat_luong_tu_hoc_cua_hoc_sinh_l.doc