Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học chương Cacbon - Hóa học 11
Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Dạy học theo dự án- Một phương pháp dạy học tích cực
Ngày nay, DHDA được sử dụng phổ biến trong các trường phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt là ở những nước phát triển.
7.1.1. Khái niệm dạy học theo dự án
DHDA là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.
7.1.2. Đặc điểm của dạy học theo dự án
DHDA có những đặc điểm sau:
- Định hướng thực tiễn: chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của người học.
- Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
- Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra hứng thú của HS cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
- Tính phức hợp: nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
- Định hướng hành động: trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
- Tính tự lực cao của người học: trong DHDA, người học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
- Cộng tác làm việc: các dự án hoc tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội.
- Định hướng sản phẩm: trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Một trong những trọng tâm của đổi mới giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học. Tiến trình dạy học cần được thực hiện dựa trên hoạt động tích cực, chủ động của học sinh với sự tổ chức và định hướng đúng đắn của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập cho học sinh. Định hướng đổi mới này cũng gắn liền với việc đa dạng hóa các hình thức học tập: dạy học trong nhà trường và ngoài môi trường thực tế, học tập trong giờ học chính khóa và học qua các hoạt động ngoại khóa Cùng với xu thế chung của đổi mới giáo dục, dạy học hóa học cũng cần có những đổi mới nhất định về hình thức và phương pháp. Mục tiêu của đổi mới trong dạy học hóa học phổ thông không chỉ dừng lại trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức hóa học cơ bản, mang tính sách vở mà còn trang bị cho học sinh những kiến thức hóa học hiện đại, mang tính thực tiễn cao; hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức hóa học để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Để đạt được các mục tiêu trên có lẽ không thế thiếu được vai trò của dạy học theo dự án. Dạy học theo dự án là một mô hình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nó giúp phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hóa những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình. Chương trình dạy học theo dự án được xây dựng dựa trên những câu hỏi định hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh thực tế. Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau, có thể lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh không phụ thuộc vào cách học của họ. Thông thường học sinh làm việc với các chuyên gia và những thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu sâu nội dung hơn. Mô hình dạy học này đã mang đến một phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, cải thiện trí nhớ, kĩ năng học tập, sức sáng tạo và tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong những năm gần đây, ở Vĩnh Phúc số lượng học sinh bậc trung học phổ thông có xu hướng tăng, nên số lượng trường phổ thông cũng tăng. Khối lượng kiến thức cơ bản của HS phổ thông lớn hơn và rộng hơn so với trước đây. Bên cạnh đó, sự phát triển của xã hội đặt ra yêu cầu cho HS phải có kiến thức xã hội sâu, rộng, có kĩ năng thực hành và vận dụng kiến thức. HS cần có năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, làm việc nhóm, và có tính linh hoạt, độc lập Tuy nhiên trong thực tế, số HS đáp ứng được các yêu cầu này chưa nhiều, bởi đa số các GV cũng như HS vẫn dạy và học theo hướng “học để thi”, đó là các em vẫn chú trọng nhiều vào việc ôn luyện để thi tốt nghiệp và đại học. Cơ sở vật chất đã được lãnh đạo Sở Giáo dục và Ban giám hiệu các trường quan tâm cải thiện, đầu tư nhiều so với trước, nhiều trường có hệ thống các phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm đáp ứng được phần nào việc dạy học theo phương pháp mới. Qua các đợt tập huấn đổi mới PPDH của Bộ, của Sở thì đến nay nhiều trường, nhiều GV đã quan tâm hơn đến vấn đề đổi mới PPDH và bước đầu đã đạt được một số thành tựu nhất định. Chẳng hạn: Sở Giáo dục đã tổ chức cuộc thi thiết kế bài giảng E-learning với GV các trường phổ thông, hoặc Sở Giáo dục tổ chức các cuộc thi giáo viên giỏi với yêu cầu cao về đổi mới PPDH, các trường phổ thông cũng yêu cầu GV dạy học theo PPDH và kĩ thuật dạy học tích cực trong các tiết thao giảng, dự giờ Tuy nhiên việc sử dụng PPDH và kĩ thuật dạy học tích cực trong các tiết dạy hàng ngày thì còn nhiều hạn chế. Qua điều tra chúng tôi cũng thấy GV đều đánh giá việc vận dụng PPDH theo dự án trong dạy học Hóa học mang đến hiệu quả cao, HS nắm vững kiến thức không chỉ trong bài học mà cả các kiến thức bên ngoài. Học sinh có hứng thú trong học tập bộ môn, phát triển được năng lực tư duy sáng tạo, năng lực hợp tác làm việc nhóm, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Việc áp dụng phương pháp dạy học theo dự án cũng như là dạy học theo các kĩ thuật dạy học và phương pháp dạy học tích cực ở trường THPT Trần Phú còn nhiều hạn chế do còn một số khó khăn nhất định. Có lẽ đây cũng là vấn đề mà các cấp quản lí giáo dục cũng rất quan tâm và cần đưa ra các giải pháp cũng như là chính sách phù hợp để GV và HS có điều kiện thực hiện tốt công cuộc đổi mới PPDH. Vì vậy trong một vài năm gần đầy, tôi đã và đang tiến hành nghiên cứu việc sử dụng phương pháp dạy học dự án vào dạy học môn Hóa học tại trường THPT Trần Phú. Năm học 2019-2020, tôi tiếp tục nghiên cứu dạy học dự án với đối tượng học sinh lớp 11. 2. Tên sáng kiến Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học chương Cacbon - Hóa học 11 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: NGUYỄN THỊ THANH - Địa chỉ tác giả sáng kiến: THPT TRẦN PHÚ - Số điện thoại: 0983.158.009 E_mail: thanhvtvp@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: tác giả là chủ đầu tư sáng kiến 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: dạy học phần Cacbon – Hóa học 11 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: tháng 12 năm 2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Dạy học theo dự án- Một phương pháp dạy học tích cực Ngày nay, DHDA được sử dụng phổ biến trong các trường phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt là ở những nước phát triển. 7.1.1. Khái niệm dạy học theo dự án DHDA là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. 7.1.2. Đặc điểm của dạy học theo dự án DHDA có những đặc điểm sau: - Định hướng thực tiễn: chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của người học. - Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực. - Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra hứng thú của HS cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. - Tính phức hợp: nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp. - Định hướng hành động: trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học. - Tính tự lực cao của người học: trong DHDA, người học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. - Cộng tác làm việc: các dự án hoc tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội. - Định hướng sản phẩm: trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu. Như vậy DHDA đã tạo cơ hội để HS được tham gia tích cực vào hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Với những đặc điểm này, DHDA là PPDH độc đáo, đa dạng và mang lại hiệu quả cao. 7.1.3. Quy trình dạy học theo dự án Việc thực hiện dự án được thực hiện gồm 6 bước: Lựa chọn chủ đề, Lập kế hoạch, Thu thập thông tin, Xử lí thông tin, Báo cáo kết quả, Đánh giá. Để thuận lợi trong việc tổ chức các hoạt động dạy học, 6 bước trên được gói lại thành 3 bước chính: 7.1.3.1. Bước 1: Lập kế hoạch Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng trong DHDA, GV cần tổ chức cho HS cùng tham gia vào các hoạt động: - Lựa chọn chủ đề dự án: được khởi đầu bằng một ý tưởng, liên quan với nội dung học tập, gắn với thực tiễn. GV và HS cùng đề xuất xác định đề tài, chú ý đến những chủ đề liên hệ với thực tiễn gây được hứng thú và sự quan tâm của HS. Ví dụ: các chủ đề có liên quan đến đời sống hàng ngày (trường học, gia đình, chăm sóc vật nuôi), văn hóa xã hội, các vấn đề thời sự cập nhật (an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường), điạ lí và sinh thái - Xây dựng tiểu chủ đề: từ các chủ đề lớn, GV hướng dẫn HS phát triển tìm các chủ đề nhỏ (tiểu chủ đề). Đây là các vấn đề nghiên cứu cụ thể. GV có thể sử dụng sơ đồ tư duy, sơ đồ câu hỏi 5W1H để hướng dẫn HS xác định lựa chọn ý tưởng cũng như những vấn đề cần giải quyết xung quanh dự án. HS lựa chọn tiểu chủ đề theo sở thích và thành lập nhóm nghiên cứu theo chủ đề. - Lập kế hoạch: Từ các chủ đề, tiểu chủ đề đã chọn HS thảo luận nhóm để lập kế hoạch dự án (DA). HS sử dụng sơ đồ tư duy để lập kế hoạch: + Xác định các vấn đề nghiên cứu liên quan đến chủ đề nhằm tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu (câu hỏi nội dung, câu hỏi bài học). + Xác định quy mô và mục tiêu của chủ đề, các nhiệm vụ cần thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra. + Phân công công việc cho các thành viên trong nhóm và thời hạn hoàn thành. + Xác định phương tiện và dự kiến sản phẩm của DA, sau đó các nhóm nộp kế hoạch thực hiện DA. Sau khi lập kế hoạch thực hiện DA, các nhóm cử đại diện trình bày, các nhóm khác và GV bổ sung, HS chỉnh sửa hoàn thiện kế hoạch thực hiện DA. GV theo dõi và hướng dẫn HS thực hiện DA, tổng hợp kết quả, trình bày báo cáo, đánh giá rút kinh nghiệm. 7.1.3.2. Bước 2: Thực hiện dự án Các nhóm HS tiến hành các hoạt động theo kế hoạch: - Thu thập thông tin và thực hiện điều tra: HS thu thập thông tin qua phỏng vấn, chụp ảnh, báo chí, mạng internet và thường xuyên trao đổi với nhau để cùng phối hợp, hỗ trợ nhau khi cần để trả lời cho các câu hỏi trong DA. - Xử lí thông tin: HS xử lí các dữ liệu thu thập được, có thể dùng biểu đồ, đồ thị để mô tả, giải thích các dữ liệu, đưa ra những nhận xét. Các nhóm cần thường xuyên trao đổi, xin ý kiến tham vấn của giáo viên. 7.1.3.3. Bước 3: Tổng hợp kết quả Các nhóm tổng hợp các kết quả thu thập từ các thành viên trong nhóm để có cái nhìn toàn cảnh về những gì khám phá được. - Từ kết quả thu được các nhóm thảo luận xây dựng sản phẩm. Sản phẩm cuối cùng được trình bày dưới nhiều dạng khác nhau: bài thuyết trình, biểu diễn (đóng kịch, hát, thơ), trưng bày triển lãm (tranh ảnh, báo tường, mô hình), powerpoint - Trình bày báo cáo kết quả: các nhóm phân công các thành viên tham gia trình bày báo cáo theo hình thức đã chọn. Sản phẩm của DA có thể được trình bày trong lớp, có thể giới thiệu trước toàn trường, hoặc ngoài xã hội - Đánh giá rút kinh nghiệm: sau khi trình bày sản phẩm DA, các nhóm sẽ đánh giá kết quả của nhau và nhìn lại quá trình thực hiện DA. Việc đánh giá DA tập trung vào các vấn đề: + Mục tiêu học tập đặt ra của DA đã đạt được hay chưa? + Sản phẩm của DA có dùng được hay không? Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của sản phẩm đó? + Thời gian thực hiện DA? Những khó khăn, thuận lợi trong quá trình thực hiện DA. + Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên, sự phối hợp của các thành viên trong nhóm. + Những kinh nghiệm cho việc phát triển DA hoặc thực hiện DA tiếp theo. Các nhóm tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, GV đánh giá cuối cùng về kết quả của DA và quá trình thực hiện DA của các nhóm, các thành viên. Như vậy trong quá trình thực hiện DA, GV cần theo dõi, hướng dẫn HS cụ thể về các kĩ năng xã hội (giao tiếp, hợp tác), kĩ năng lập phiếu phỏng vấn, thống kê, làm thực nghiệm, thu thập xử lí thông tin, tổng hợp và trình bày báo cáo. 7.2. Một số lưu ý khi hướng dẫn HS học theo dự án GV cần dành 1 tiết đầu để giới thiệu phương pháp dạy học theo dự án, hướng dẫn HS chọn chủ đề, phát triển tiểu chủ đề. - Hướng dẫn HS lập kế hoạch và trình bày kế hoạch dự án thông qua các hoạt động: + Trên cơ sở nội dung cần tìm hiểu gợi ý HS tìm chủ đề liên quan (sử dụng LĐTD, kĩ thuật khăn trải bàn), chọn tiểu chủ đề để hình thành các nhóm nghiên cứu. + Hướng dẫn HS lập kế hoạch nghiên cứu: dùng sơ đồ tư duy để xác định các vấn đề liên quan trong chủ đề dự án, tức là xác định phạm vi nghiên cứu, lập kế hoạch phân công nhiệm vụ cho từng thành viên. + Trình bày kế hoạch của nhóm, các nhóm khác bổ sung để hoàn thiện kế hoạch dự án. - Hướng dẫn HS thực hiện dự án: GV cần hướng dẫn các nhóm phân công và làm rõ bằng cách trả lời các câu hỏi: thu thập thông tin như thế nào? ở đâu? Bằng cách nào? Dùng phương tiện gì? Thời gian bao lâu? Ai làm? Phối hợp với ai? Cách xử lí thông tin như thế nào? - Hướng dẫn HS tổng hợp và báo cáo kết quả: cần hướng dẫn HS lựa chọn cách trình bày sản phẩm dự án một cách đa dạng, không áp đặt. Từ cách trình bày sản phẩm HS chọn mà GV hướng dẫn HS tổng hợp báo cáo, cố gắng động viên phát huy tính sáng tạo của HS trong trình bày. Sau khi các nhóm hoàn thành dự án, GV nên dành 1 tiết để HS trưng bày sản phẩm, báo cáo kết quả của mình và đánh giá DA của các nhóm. GV nên để HS tự đánh giá kết quả hoạt động của nhóm mình và đánh giá lẫn nhau, sau đó GV đưa ra nhận xét của mình. GV cùng HS nhìn lại quá trình thực hiện DA để rút kinh nghiệm cho các DA sau. Trong quá trình hướng dẫn HS, GV cần có thái độ thân thiện, cởi mở, động viên HS chủ động, tích cực thực hiện nhiệm vụ một cách sáng tạo. GV cần theo dõi sát quá trình thực hiện DA của các nhóm, động viên kịp thời những hoạt động sáng tạo của HS, khuyến khích các ý tưởng phát triển DA của HS và nghiêm khắc nhắc nhở những cá nhân ỷ lại có biểu hiện dựa dẫm, ăn theo. 7.3. Hướng dẫn sử dụng phương pháp DHDA vào dạy học chương Cacbon – hóa học 11 7.3.1. Dự án nhỏ Các dự án nhỏ có thời gian thực hiện ngắn (1 đến vài giờ) nên thường được thực hiện trong giờ lên lớp. Các dự án này có nhiệm vụ đơn giản, dễ thực hiện, không mất quá nhiều thời gian. Để thực hiện các dự án này, HS chỉ cần sử dụng kiến thức trong sách giáo khoa, những hiểu biết sẵn có, quá trình thực hiện dự án không phức tạp và không cần sử dụng quá nhiều kĩ năng. Khi dạy học phần ứng dụng các đơn chất và hợp chất của phi kim, có thể xây dựng dự án nhỏ theo hướng sau: Vai trò, tác hại (nếu có) của chất X trong cuộc sống (Chất X có thể là: C, CO, CO2, muối cacbonat, Si, SiO2, muối silicat...) - Mục tiêu chính: Tìm hiểu các ứng dụng của chất X ở mức độ liệt kê, hiểu sơ lược cơ sở lí thuyết và nội dung của các ứng dụng đơn giản. - Các câu hỏi định hướng: + Từ tính chất vật lí và hóa học của chất X, hãy dự đoán các xu thế ứng dụng của X? + Những ứng dụng gì đã được trình bày trong sách giáo khoa? + Ngoài những ứng dụng trong sách giáo khoa, em còn biết thêm ứng dụng nào khác? + Các ứng dụng mà em nêu ra do tính chất nào của X quyết định? + Các ứng dụng có thể được diễn tả bằng hình ảnh, sơ đồ hay mô hình như thế nào? - Đề xuất thực hiện các dự án nhỏ: GV có thể tổ chức cho HS thực hiện các dự án nhỏ theo các phương án sau: + Phương án 1: Trong giờ lên lớp, khi học tới phần ứng dụng thì chia lớp thành các nhóm. GV yêu cầu HS dựa vào sách giáo khoa và sự hiểu biết của bản thân, trong vòng 5-10 phút hãy thảo luận để tạo ra một sản phẩm giới thiệu các ứng dụng của chất X. Sản phẩm cần tạo ra dưới dạng sơ đồ, hình ảnh kèm lời thuyết minh. + Phương án 2: từ bài học đầu tiên của mỗi chương, GV hệ thống các nội dung ứng dụng có trong các bài của chương nêu các đề tài dự án, rồi phân công các nhóm HS nghiên cứu các dự án đó, hoặc tổ chức cho HS tự chọn. Trong quá trình nghiên cứu các bài học cụ thể, đến phần ứng dụng của chất nào thì nhóm HS phân công lên trình bày sản phẩm dự án của nhóm mình. HS tạo ra sản phẩm dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể chỉ đơn giản là liệt kê bằng các gạch đầu dòng, cũng có thể diễn tả bằng sơ đồ, hình vẽ, hay cử chỉ, hành độngCác nhóm trình bày sản phẩm của mình dưới dạng một bài thuyết trình, hay dưới dạng làm thơ, kể chuyện tuỳ vào khả năng sáng tạo của các em. 7.3.2. Dự án trung bình Việc tiến hành các dự án nhỏ như trên vẫn gặp những khó khăn về mặt thời gian vì thời gian thực hiện mỗi dự án là quá nhiều so với một tiết học, nhưng lại quá ít so với một buổi hoạt động ngoại khoá. Một biện pháp có thể thực hiện là xây dựng những dự án dạy học lớn hơn (dự án trung bình) để HS thực hiện ngoài giờ lên lớp như một bài tập về nhà. HS có thể nhận đề tài dự án trước mỗi chương. Sau mỗi chương sẽ có một buổi hoạt động ngoại khoá để HS công bố sản phẩm trước lớp hoặc khối lớp. GV có thể tổ chức và thực hiện dạy học dự án như sau: - Trước khi học mỗi chương, GV giới thiệu kế hoạch dạy học theo dự án của chương (bao gồm nội dung, phương pháp dạy học, thời gian dạy học cụ thể cho từng nội dung) tới tất cả HS. GV tổng hợp tất cả nội dung của chương và liệt kê những nội dung có thể dùng để xây dựng các dự án. GV trao đổi, thảo luận với HS để chia HS thành các nhóm và tổ chức cho các nhóm HS chọn nội dung để xây dựng dự án. Dựa vào nội dung đã chọn, các nhóm suy nghĩ đặt tên cho dự án và báo cáo với GV. Từ nội dung và tên dự án, GV và HS thống nhất về bộ câu hỏi định hướng, và xác định mục tiêu của dự án. GV đưa ra những yêu cầu về: + Quá trình thực hiện và sản phẩm của dự án. + Những chỉ dẫn về cách thức tổ chức, thực hiện, chỉ dẫn về tài liệu tham khảo và những đối tượng cần phải tiếp cận. + Kế hoạch đánh giá và cách thức đánh giá dự án một cách rõ ràng, cụ thể. + Sản phẩm và thống nhất với HS về thời gian nộp sản phẩm của dự án. - Từ những định hướng và chỉ dẫn của GV, HS thảo luận nhóm để lập kế hoạch thực hiện dự án, phân công công việc phù hợp cho mỗi thành viên, nộp kế hoạch và bản phân công công việc cho GV để GV góp ý điều chỉnh nếu thấy cần thiết, đồng thời giúp GV dễ dàng theo dõi, giám sát quá trình hoạt động của các nhóm HS. - Các nhóm tích cực, tự lực thực hiện kế hoạch đã đặt ra, báo cáo lại cho GV kết quả thực hiện của từng giai đoạn dự án và trao đổi về những khó khăn, cách khắc phục nếu cần. GV giám sát, theo dõi, đánh giá quá trình thực hiện dự án của các nhóm, đưa ra ý kiến giúp đỡ kịp thời. - Sau khi học xong mỗi chương và xem xét kết quả thực hiện dự án của các nhóm HS, GV tổ chức một buổi ngoại khoá để các cá nhân hoặc nhóm công bố, giới thiệu sản phẩm, trao đổi, nghe nhận xét, góp ý và trả lời các chất vấn của GV, bạn bè. GV cùng với HS tổng hợp, đánh giá và cho điểm các dự án. Tuỳ điều kiện thời gian, GV cũng có thể bố trí cho các nhóm trình bày sản phẩm của nhóm trong thời gian nghiên cứu các bài học cụ thể có liên quan. Khi dạy học phần Cacbon, có thể tiến hành các dự án dạy học trung bình sau: 7.3.2.1. Dự án 1: Tác hại của CO với sức khỏe con người và cách phòng tránh ngộ độc khí CO *) Mục tiêu chính: Nghiên cứu tác hại của CO lên sức khỏe con người, các nguồn tạo ra CO, cách phòng tránh hiện tượng ngạt khí CO, cách xử lí khi bị ngộ độc khí CO. *) Các câu hỏi định hướng: + Hệ tuần hoàn máu của con người hoạt động như thế nào? + Vai trò của khí O2 với sự sống của con người? Nếu thiếu hoặc không có O2 thì cơ thể con người bị ảnh hưởng như thế nào? + Trong cuộc sống xung quanh em, khí CO có thể được tạo ra qua các hoạt động gì? + Khi con người hít phải khí CO thì có vấn đề gì xảy ra? + Nếu chẳng may hít phải khí CO thì cần làm gì để chống độc? + Nếu gặp người bị ngộ độc khí CO thì cần làm
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_day_hoc_theo_du_a.doc