Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa
Trong xã hội hiện đại, TDTT được coi là một trong những hình thức và biện pháp quan trọng nhất để phát triển cơ thể của con người một cách toàn diện. Một yếu tố cần thiết trong việc đào tạo con người về các mặt Đức-Trí-Thể-Mỹ.
Những năm gần đây cùng với sự đổi mới của đất nước, nghành Thể dục thể thao Việt nam cũng có những thay đổi theo xu hướng phát triển của thời đại. Chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới công tác giáo dục và đào tạo để đáp ứng những yêu cầu cấp bách của xã hội, phấn đấu Thể dục thể thao sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu và yếu kém trong khu vực , tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh trong những thập kỷ tới đây. Có thể nói, sức khỏe là tài sản vô giá của dân tộc, của mỗi quốc gia mà nó còn là nhân tố cơ bản tạo nên động lực phát triển của đất nước.
Các bài tập của Điền kinh đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển thể lực toàn diện cho học sinh. Nội dung giảng dạy Điền kinh ở bậc trung học cơ sở bao gồm các môn chạy cự ly ngắn, nhảy cao “kiểu bước qua”, chạy bền và nhảy xa kiểu ngồi. Thực trạng thành tích các môn này trong kiểm tra thành tích cuối năm và thi đấu Hội khỏe phù đổng (HKPĐ) cấp huyện, tỉnh của Trường trung học cơ sở xã Nga Nhân – Huyện Nga Sơn – Tỉnh Thanh Hóa còn rất hạn chế, nhất là thành tích chạy ngắn.
Do Sự phát triển về mọi mặt của cơ thể học sinh diễn ra khá phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài cơ thể. Người làm công tác giáo dục thể chất cần nắm chắc các quy luật sinh lý cơ bản ấy, thúc đẩy các quy luật ấy phát triển tốt thì mục đích nhiệm vụ giáo dục thể chất sẽ đạt được kết quả tối ưu.
Tóm tắt đặc điểm sinh lý học sinh ở bậc trung học cơ sở (từ 12 đến 15 tuổi):
Đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này là quá trình phát dục mạnh mẽ. Các tuyến nội tiết (tuyến hạ não, tuyến giáp trạng) tăng cường hoạt động, kích thích cơ thể lớn lên nhanh mà chủ yếu do chân tay dài ra, đồng thời kích thích tuyến sinh dục (buồng trứng ở con gái, tinh hoàn ở con trai) bắt đầu hoạt động mạnh mẽ theo kiểu cách của sinh lý người trưởng thành.
MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lý do chọn đề tài : 2. Mục đích nghiên cứu: 3. Đối tượng nghiên cứu: 4. Phương pháp nghiên cứu: a. Phương pháp tham khảo tài liệu: b. Phương pháp phỏng vấn: c. Phương pháp kiểm tra sư phạm: d. Phương pháp thực nghiệm: II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến: 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh ngiệm: 3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: a. Lựa chọn một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9: b. Ứng dụng các bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9: 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: III. PHẦN KẾT LUẬN , ĐỀ XUẤT: 1. Kết luận: 2. Đề xuất: TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN. ĐÁNH GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN 2 2 3 3 4 4 4 4 4 4 4 6 9 9 12 15 15 15 17 18 19 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Trong xã hội hiện đại, TDTT được coi là một trong những hình thức và biện pháp quan trọng nhất để phát triển cơ thể của con người một cách toàn diện. Một yếu tố cần thiết trong việc đào tạo con người về các mặt Đức-Trí-Thể-Mỹ. Những năm gần đây cùng với sự đổi mới của đất nước, nghành Thể dục thể thao Việt nam cũng có những thay đổi theo xu hướng phát triển của thời đại. Chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới công tác giáo dục và đào tạo để đáp ứng những yêu cầu cấp bách của xã hội, phấn đấu Thể dục thể thao sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu và yếu kém trong khu vực, tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh trong những thập kỷ tới đây. Có thể nói, sức khỏe là tài sản vô giá của dân tộc, của mỗi quốc gia mà nó còn là nhân tố cơ bản tạo nên động lực phát triển của đất nước. Các bài tập của Điền kinh đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển thể lực toàn diện cho học sinh. Nội dung giảng dạy Điền kinh ở bậc trung học cơ sở bao gồm các môn chạy cự ly ngắn, nhảy cao “kiểu bước qua”, chạy bền và nhảy xa kiểu ngồi. Thực trạng thành tích các môn này trong kiểm tra thành tích cuối năm và thi đấu Hội khỏe phù đổng (HKPĐ) cấp huyện, tỉnh của Trường trung học cơ sở xã Nga Nhân – Huyện Nga Sơn – Tỉnh Thanh Hóa còn rất hạn chế, nhất là thành tích chạy ngắn. Do Sự phát triển về mọi mặt của cơ thể học sinh diễn ra khá phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài cơ thể. Người làm công tác giáo dục thể chất cần nắm chắc các quy luật sinh lý cơ bản ấy, thúc đẩy các quy luật ấy phát triển tốt thì mục đích nhiệm vụ giáo dục thể chất sẽ đạt được kết quả tối ưu. Tóm tắt đặc điểm sinh lý học sinh ở bậc trung học cơ sở (từ 12 đến 15 tuổi): Đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này là quá trình phát dục mạnh mẽ. Các tuyến nội tiết (tuyến hạ não, tuyến giáp trạng) tăng cường hoạt động, kích thích cơ thể lớn lên nhanh mà chủ yếu do chân tay dài ra, đồng thời kích thích tuyến sinh dục (buồng trứng ở con gái, tinh hoàn ở con trai) bắt đầu hoạt động mạnh mẽ theo kiểu cách của sinh lý người trưởng thành. Hằng năm các em cao thêm 7 - 10cm, chân tay lều khều, động tác vụng về, quá trình trao đổi chất cũng tăng, xuất hiện các giới tính phụ. Các em tập làm người lớn, biết lo lắng trách nhiệm, hăng hái nhiệt tình, hăm hở đi tìm cái mới nhưng chưa có kinh nghiệm tự lượng sức mình, thường đánh giá cao khả năng, dễ lẫn lộn giữa dũng cảm với liều lĩnh, giữa khiêm tốn với nhu nhược, giữa tình cảm đúng với tình cảm sai Khi tuyến sinh dục đã hoạt động đủ mạnh, đủ làm xuất hiện giới tính chính thì trở lại kiềm hãm sự hoạt động của hai tuyến hạ não và giáp trạng. Bởi thế, chiều cao phát triển chậm dần, ít năm nữa sẽ dừng hẳn, trái lại các chiều ngang, các vòng cơ thể cùng với sức lực tăng lên rõ rệt. Nói chung, cơ thể học sinh đang trên đà phát triển mạnh. Những sự mất cân đối giữa các mặt đặt yêu cầu cho các nhà giáo dục phải biết chăm sóc các em thật chu đáo. Thiếu luyện tập thể dục, ý thức giữ vệ sinh kém, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí không hợp lý sẽ đưa đến những tác hại không nhỏ cho sức khỏe. Nhưng nếu hiểu biết rõ đặc điểm và sử dụng đúng năng lực của các em thì tuổi này có nhiều đóng góp tốt, có nhiều tài năng đang độ nảy nở, kể cả tài năng về lĩnh vực TDTT. Môn học thể dục trong nhà trường ngày nay đã được ngành Giáo dục và Đào tạo, lãnh đạo nhà trường quan tâm, nhưng vẫn còn một số các em học sinh đang còn có thái độ xem thường mà chủ yếu là các em học sinh lớp 9 ở lứa tuổi 14-15. Do các em đều là con nhà nông nên sức khỏe yếu, năng khiếu vận động còn hạn chế, chế độ ăn uống không đảm bảo, thời gian vận động cũng hạn chế vì phải phụ giúp gia đình và đặc biệt ở lứa tuổi này các em có sự biến đổi mạnh mẽ về tâm sinh lý nên các em thường hay nhút nhát, thiếu sự say mê, hứng thú, nhiệt tình trong tập luyện. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục thể chất, là một giáo viên đã có nhiều năm công tác tại trường, tôi luôn trăn trở có những cải tiến cụ thể để nâng cao hiệu quả trong giảng dạy và huấn luyện đội tuyển Điền kinh của trường. Xuất phát từ tình hình thực tiễn của học sinh trường THCS Nga Nhân và những năm được chuyên môn Phòng giáo dục giao nhiệm vụ huấn luyện đội tuyển điền kinh cấp huyện dự thi Hội khỏe phù đổng cấp tỉnh và các giải thi học sinh giỏi TDTT cấp huyện, cấp tỉnh. Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Từ đó tôi mạnh dạn xây dựng đề tài: “Ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa”. 2. Mục đích nghiên cứu: Lựa chọn và ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa. Để giải quyết mục đích nghiên cứu nói trên chúng tôi đề ra các mục tiêu nghiên cứu sau: Mục tiêu 1: Lựa chọn một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa. 3. Đối tượng nghiên cứu: Với sáng kiến kinh nghiệm “Ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa”. tôi đã lựa chọn 28 em học sinh lớp 9A làm nhóm đối chứng và 28 em học sinh lớp 9B làm nhóm thực nghiệm. Hai lớp có số lượng học sinh nam và nữ bằng nhau để vận dụng vào trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn. 4. Phương pháp nghiên cứu: a. Phương pháp tham khảo tài liệu: Phương pháp này giúp chúng tôi hệ thống hóa các kiến thức có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu thông qua việc tham khảo các văn bản, chỉ thị của Đảng và nhà nước về công tác giáo dục thể chất, tham khảo các tài liệu của các chuyên gia, hình thành cơ sở lý luận, xác định mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đồng thời xây dựng tổng quan, xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu của đề tài. b. Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phương pháp này với mục đích tổng hợp các kiến thức và kinh nghiệm của các giáo viên, huấn luận viên. Từ đó chọn lọc được một số bài tập hợp lý để nâng cao hiệu quả giảng dạy kỹ thuật chạy ngắn. c. Phương pháp kiểm tra sư phạm: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để tiến hành kiểm tra thành tích chạy ngắn trước và sau thực nghiệm của học sinh khối lớp 9 Trường trung học cơ sở Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa. - Cách thức tiến hành kiểm tra thành tích: + Kiểm tra mỗi lượt 4 học sinh + Mỗi học sinh thực hiện 1 lần lấy thành tích - Thực hiện chạy ngắn theo luật điền kinh. + Loại đạt: Thực hiện đúng 3 giai đoạn kĩ thuật và thành tích đạt 9,0-10,0 giây (nam), 10,0-11,3 giây (nữ). Có một vài sai sót nhỏ về kĩ thuật hoặc thành tích đạt 9,8 – 10,5 giây nam, 11,1 – 11,6 giây nữ nhưng thực hiện sai 1 trong 3 giai đoạn kĩ thuật. + Loại chưa đạt: Thực hiện hai giai đoạn kĩ thuật, không tính thành tích. Thực hiện sai ba giai đoạn kĩ thuật. d. Phương pháp thực nghiệm: + Nhóm thực nghiệm: Chọn ngẫu nhiên 28 em học sinh lớp 9B. + Nhóm đối chứng: Chọn ngẫu nhiên 28 em học sinh lớp 9A (Số lượng nam và nữ điều nhau). II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 1. Cơ sở lý luận của sang kiến: Để hiểu rõ hơn đặc điểm nói trên, cần biết thêm một số hệ thống cơ quan dưới đây: Hệ thần kinh: đã hoàn thiện về cơ cấu tế bào, nhưng chức năng sinh lý vẫn đang phát triển mạnh. Hưng phấn vẫn chiếm ưu thế, khả năng phân tích tổng hợp mặc dù còn thấp nhưng sâu sắc hơn tuổi nhi đồng. Dễ thành lập phản xạ, song cũng dễ phai mờ, cho nên tiếp thu nhanh nhưng cũng chóng quên. Thần kinh thực vật yếu ớt ở mức độ nhất định, các dấu hiệu về kích thích cảm giác tăng lên, 14% trai và 26% gái xuất hiện trạng thái đau đầu vô cớ, chóng mệt, hồi hộp, đôi khi có biểu hiện đau ở vùng dạ dày, dể bị chấn thương tinh thần khi rối loạn giấc ngủ, hoặc khi giáo dục sai phương pháp, khi công việc nặng nhọc, tập luyện quá sức. Hệ vận động: phát triển đáng chú ý cả về số lượng và chất lượng. Xương đang cốt hóa mạnh mẽ, dài ra rất nhanh, Các xương nhỏ ở cổ tay, cổ chân đã thành xương nhưng chưa vững vàng, lao động, học tập nặng nề dễ gây đau kéo dài ở các khớp đó. Mãi đến 15 - 16 tuổi cột sống mới tương đối ổn định các đường cong sinh lý. Nếu đi, đứng, ngồi sai tư thế vẫn có thể bị cong vẹo cột sống. Đặc biệt đối với nữ do các xương chậu chưa cốt hóa đầy đủ nên nếu tập luyện không đúng sẽ dễ bị méo, lệch, ảnh hưởng đến chức năng sinh đẻ sau này. Thể dục thể thao đã phân môn và nâng cao kỹ thuật cho từng đối tượng nam, nữ tập theo hình thức và khối lượng khác nhau. Trên cơ sở tập luyện toàn thân, toàn diện mà ưu tiên phát triển các chiều dài trong cơ thể (ở tuổi tiền dậy thì) hoặc ưu tiên phát triển các chiều ngang và chiều vòng (từ khi hết tiền dậy thì), ưu tiên phát triển sức nhanh, khéo léo và sức mạnh, có chú ý phát triển sức bền chung (ở cả tiền dậy thì và dậy thì, đặc biệt từ khi dậy thì chính thức). Nguyên lý giáo dục cũng giống như người lớn. Cần quan tâm phát triển các tố chất cho các em nhưng tùy theo sự phát triển của lứa tuổi mà ưu tiên phát triển các tố chất nào cho phù hợp. Khéo léo: Các bài tập khéo léo chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Giáo dục khéo léo nhằm làm cơ sở cho việc chuẩn bị tiếp thu các bài tập phức tạp ở lớp trên, cần sử dụng các bài tập phối hợp phức tạp và trong điều kiện ngày càng phức tạp hơn. Mềm dẻo: Sự phát triển tự nhiên của mềm dẻo ở lứa tuổi này là tốt nhất. Cần duy trì mềm dẻo bằng các bài tập có biên độ lớn. Tuy nhiên không nên phát triển mềm dẻo quá mức cho các em. Sử dụng các bài tập mềm dẻo phải kết hợp với việc củng cố các cơ và dây chằng. Sức nhanh: Lứa tuổi nhỏ, sức nhanh còn kém phát triển. Để giáo dục sức nhanh trước tiên cần ưu tiên phát triển phản ứng vận động đơn giản và sức nhanh thực hiện động tác ở các em lứa tuổi lớn (từ 11 - 14 tuổi). Sức nhanh phát triển mạnh cụ thể là khoảng 12 tuổi đối với nữ và 13 tuổi đối với nam. Ở lứa tuổi này cần giáo dục tốc độ và phản ứng vận động phức tạp. Cần chú ý tránh hiện tượng chặn tốc độ, trong các bài tập nên sử dụng hình thức nghỉ ngơi tích cực. Sức mạnh: Cần phải thận trọng vì các bài tập sức mạnh không hợp lý sẽ gây nên những sai lệch tư thế bình thường. Lứa tuổi 12 trở lên sức mạnh tăng rõ rệt, có thể sử dụng các bài tập có trọng lượng lớn nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc tăng từ từ, vừa sức và chiếu cố đặc điểm cá nhân. Sức bền: Phát triển còn hạn chế, chú ý phát triển sức mạnh của các cơ hô hấp để tạo điều kiện cho giáo dục sức bền sau này. Thực tế giáo dục hiện nay với yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục, tích cực đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển giáo dục toàn diện thì bên cạnh đó TDTT nói chung bộ môn thể dục nói riêng cũng phải được nâng cao phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và mục tiêu giáo dục thể chất trong nhà trường. Do đó việc nghiên cứu một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích cho học sinh là phù hợp với mục tiêu, yêu cầu trên và là vấn đề cần thiết. Nhằm tìm hiểu hiệu quả việc sử dụng các bài tập thể lực chuyên môn để nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh. Kết quả nghiên cứu có thể góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn chạy ngắn cho học sinh bậc trung học cơ sở tạo một nền tảng vững chắc cho các em bước qua cấp trung học phổ thông. Ở lớp 9 môn chạy ngắn được tiến hành giảng dạy trong 8 tuần của học kỳ 1 và được phân bổ trong 15 tiết. Trong một tiết học 45 phút có 3 môn học là chạy ngắn, bài thể dục và chạy bền. Thời lượng để học 3 môn này chỉ chiếm khoảng 32-35 phút. Do vậy lượng vận động chưa cao nên chưa phát huy hết khả năng của học sinh. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Như chúng ta đã biết môn Thể dục là môn học có tính chất đặc thù riêng, nó khác các môn văn hóa khác ở chỗ là giảng dạy ngoài trời học sinh tiếp xúc trực tiếp với điều kiện ngoại cảnh như nắng, gió, ánh sáng, không khí Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên đóng vai trò chủ đạo tổ chức, điều khiển và sắp xếp hợp lý các nội dung và lượng vận động phù hợp với nguyên tắc sư phạm chung. Tác động của buổi tập phải toàn diện về các mặt giáo dưỡng, giáo dục sức khỏe, trong các nội dung của môn thể dục chạy ngắn có vai trò quan trọng liên quan đến các nội dung khác. Sức nhanh nói chung và sức nhanh khi di chuyển nói riêng đều rất cần thiết cho các hoạt động sống. Tập luyện chạy ngắn có ý nghĩa rất lớn trong công tác giáo dục và bồi dưỡng học sinh trong nhà trường. Qua đó hình thành các phẩm chất ý chí và đạo đức của con người, góp phần vào giáo dục và nâng cao trí tuệ, giáo dục lao động và giáo dục thẩm mỹ cho các em. Chạy 60m là một hoạt động có chu kỳ nó biểu hiện năng lực di động của con người với tốc độ nhanh nhất. Tần số và độ dài bước chạy là hai thành phần quyết định tốc độ chạy. Tuy nhiên, nếu cố bước dài sẽ làm giảm tần số, mặt khác nếu cố tăng tần số và độ dài bước chạy phải hợp lý không để chúng cản phá lẫn nhau mới có tốc độ cao. Chạy ngắn gồm các cự ly sau: 60m, 80m, 100m, 200m, 400m, trong đó chạy 60m là một nội dung bắt buộc theo phân phối chương trình trong giờ học thể dục cấp THCS và chạy 100m là nội dung mà giải điền kinh và hội khỏe Phù Đổng tỉnh tổ chức thi đấu. Trong những cuộc thi TDTT do Tỉnh tổ chức, có thể nói môn chạy ngắn là một trong những môn mà huyện Nga Sơn luôn có thành tích khá thấp so với những huyện khác. Thực trạng thành tích chạy ngắn trong kiểm tra thành tích cuối năm và thi đấu Hội khỏe phù đổng cấp huyện, tỉnh của Trường THCS Nga Nhân còn rất hạn chế, nhất là thành tích chạy ngắn. Nguyên nhân là do thời gian tập luyện ít. Hơn nữa, phương pháp tập luyện chưa phù hợp. Một phần do môn chạy ngắn chưa thực sự được quan tâm đúng mức, một phần do tố chất thể lực và ý thức luyện tập của VĐV chưa cao nên dẫn tới kết quả không được tốt trong các cuộc thi TDTT. Vì vậy, trong năm học 2016 - 2017, muốn học sinh thi đấu đạt kết quả cao, tôi thiết nghĩ, trong quá trình giảng dạy và huấn luyện, người giáo viên cần phải làm thế nào giúp học sinh rèn luyện để có thể lực tốt, lĩnh hội được kiến thức đầy đủ, nắm vững kỹ thuật và nâng cao thành tích. Nhận xét về tình hình dạy và học môn chạy ngắn: Ở lớp 9 môn chạy ngắn được tiến hành giảng dạy trong 8 tuần của học kỳ 1 và được phân bổ trong 15 tiết. Trong một tiết học 45 phút có 3 môn học là chạy ngắn, bài thể dục và chạy bền. Thời lượng để học 3 môn này chỉ chiếm khoảng 32-35 phút. Do vậy lượng vận động chưa cao nên chưa phát huy hết khả năng của học sinh. Việc lựa chọn và áp dụng những bài tập thể lực chưa hợp lý cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc nâng cao thành tích chạy ngắn của các em. Học sinh trung học cơ sở bắt đầu và đang bước vào thời kỳ dậy thì nên cơ thể các em phát triển với tốc độ rất nhanh cả về hình thái, tố chất thể lực cũng như chức năng của các hệ cơ quan trong cơ thể. Chất lượng sân bãi chưa đáp ứng nhu cầu môn học, thiết bị đồ dùng tập luyện còn thiếu. Học sinh chưa nghiêm túc tiếp thu, áp dụng phương pháp luyện tập và bài tập phù hợp với thể trạng cơ thể mình. Phụ huynh, học sinh và một số ngoại cảnh khác tác động đã làm cho các em có một suy nghĩ, một cái nhìn khác đối với bộ môn, các em còn coi nhẹ các nội dung của môn học thể dục đặc biệt là môn chạy ngắn (60m). Ngoài ra tài liệu hướng dẫn gần như không có. Đặc biệt là tình trạng học sinh không đáp ứng được yêu cầu về lượng vận động ngày càng tăng do ý thức kém của các em trong tập luyện thể dục thể thao ở trường cũng như ở nhà. Từ những vần đề trên có thể thấy việc ý thức rèn luyện các bài tập thể lực của đại đa số học sinh là rất kém, các em thường không có tinh thần cố gắng quyết tâm, hoặc khi tập luyện thì chỉ vận động sơ sài, đôi khi không đúng tần số và biên độ động tác, chỉ cần gặp một khó khăn là sẵn sàng bỏ luyện tập. Cụ thể kết quả kiểm tra ban đầu của các em học sinh lớp 9 trường THCS Nga Nhân – Nga Sơn – Thanh Hóa như sau: * Kết quả kiểm tra nội dung chạy ngắn (60m) đối với lớp 9B năm học 2016-2017 trước khi áp dụng sáng kiến: STT Họ và tên Giới Tính Thành tích (giây) Xếp loại Ghi chú 1 Mai Khắc Anh Nam 9,98 Đ 2 Phạm Minh Đạt Nam 9,75 Đ 3 Lê Minh Đức Nam 9,78 Đ 4 Mỵ Duy Hậu Nam 10,40 CĐ 5 Phạm Văn Khiêm Nam 9,45 Đ 6 Vũ Phương Nam Nam 10,18 CĐ 7 Mai Văn Tài Nam 9,36 Đ 8 Nguyễn Văn Thành Nam 9,82 Đ 9 Mai Văn Toản Nam 9,68 Đ 10 Nguyễn Văn Tiến Nam 9,25 Đ 11 Đỗ Đăng Trường Nam 9,88 Đ 12 Hỏa Văn Trường Nam 10,20 CĐ 13 Mỵ Duy Tuấn Nam 9,34 Đ 14 Mai Văn Tuấn Nam 9,49 Đ 15 Mai Công Văn Nam 10,25 CĐ 16 Lý Mai Anh Nữ 10,45 Đ 17 Mỵ Thị Ngọc Ánh Nữ 10,90 Đ 18 Mai Thị Bình Nữ 11,12 Đ 19 Mai Thị Hằng Nữ 11,49 CĐ 20 Mỵ Thị Hồng Nữ 11,20 Đ 21 Mai Khánh Huyền Nữ 10,86 Đ 22 Mỵ Thị Mỹ Linh Nữ 11,35 CĐ 23 Mai Thị Linh Nữ 11,08 Đ 24 Mai Thị Phương Nữ 11,45 CĐ 25 Đỗ Thị Quyên Nữ 10,88 Đ 26 Mai Thị Tâm Nữ 11,25 Đ 27 Đỗ Phương Thảo Nữ 11,47 CĐ 28 Mỵ Thị Vui Nữ 11,22 Đ * Kết quả kiểm tra nội dung chạy ngắn (60m) đối với lớp 9A năm học 2016-2017 trước khi áp dụng sáng kiến: STT Họ và tên Giới tính Thành tích Xếp loại Ghi chú 1 Mai Văn Đức Nam 9,85 Đ 2 Nguyễn Tuấn Anh Nam 9,79 Đ 3 Nguyễn Đức Bằng Nam 10,18 CĐ 4 Đỗ Minh Đại Nam 9,76 Đ 5 Mỵ Duy Đạt Nam 9,56 Đ 6 Mỵ Duy Đức Nam 10,08 CĐ 7 Mai Văn Khải Nam 9,88 Đ 8 Mai Xuân Lực Nam 9,42 Đ 9 Mai Văn Mạnh Nam 10,20 CĐ 10 Nguyễn Văn Mạnh Nam 10,05 CĐ 11 Trịnh Hồng Phúc Nam 9,88 Đ 12 Lê Văn Quân Nam 10,14 CĐ 13 Hoàng Thái Sơn Nam 9,38 Đ 14 Trần Văn Thế Nam 10,12 CĐ 15 Phùng Đức Tiến Nam 9,35 Đ 16 Vũ Quỳnh Anh Nữ 10,87 Đ 17 Mai Thị Ngọc Anh Nữ 10,98 Đ 18 Đỗ Thị Giang Nữ 11,42 CĐ 19 Mai Thị Linh Nữ 11,24 Đ 20 Mỵ Thị Linh Nữ 11,48 CĐ 21 Trần Thị Minh Nữ 11,20 Đ 22 Phạm Thị Mơ Nữ 11,39 CĐ 23 Trịnh Ái My Nữ 11,08 Đ 24 Mai Thị Nga Nữ 11,17 Đ 25 Trần Thị Sâm Nữ 11,06 Đ 26 Đỗ Thị Tươi Nữ 11,42 CĐ 27 Đặng Thị Thu Nữ 11,02 Đ 28 Mai Thị Huyền Trang Nữ 11,04 Đ * Kết quả tổng hợp thành tích chạy ngắn (60m) của lớp 9A và 9B năm học 2016-2017. Trước khi áp dụng sáng kiến: Nhóm thực nghiệm LỚP TỔNG SỐ XẾP LOẠI ĐẠT Tỉ lệ (%) CHƯA ĐẠT Tỉ lệ (%) 9B 28 HS 20 71,4 % 8 28,6 % Nhóm đối chứng 9A 28 HS 18 64,3 % 10 35,7% 3. Các Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: a. Lựa chọn một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh lớp 9: Trên cơ sở đánh giá năng lực của học sinh, đồng thời qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn công tác giảng dạy tôi đã lựa chọn được một số bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chạy nhanh: - Chạy bước nhỏ 20m. - Chạy đạp sau 30m. - Chạy nâng cao đùi 30m. - Chạy 30m tốc độ cao. - Chạy 30m xuất phát cao. - Chạy 30m xuất phát thấp. - Chạy biến tốc 30m. - Tại chỗ vịn tường, cây nâng cao đùi liên tục. - Trò chơi vận động: “Người thừa thứ 3”, “Chạy đuổi”,”Chạy tiếp sức chuyển vật” Những nhóm bài tập này khi áp dụng vào tập luyện phải theo dõi từ lúc học sinh bắt đầu tập
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_mot_so_bai_tap_the_luc_nham_n.doc