Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp với bộ môn Ngữ văn để tạo hứng thú và hiệu quả học tập trong dạy học Lịch sử ở trường THCS
Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất coi trọng việc dạy và học bộ môn Lịch sử. Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định trong hai câu thơ mở đầu trong cuốn “Lịch sử nước ta”:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Không chỉ ở nước ta mà ở các nước tiên tiến trên thế giới cũng chú trọng việc dạy môn Lịch sử vì nó đào tạo con người có bản sắc dân tộc. Nhưng trong thực tế cũng không ít người cho rằng, môn Lịch sử là bộ môn học thuộc nặng về ghi nhớ những sự kiện năm tháng dài lê thê và xếp vào môn phụ, vì vậy ảnh hưởng không tốt vào mục tiêu đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Bởi nhiều lí do, trong đó có lí do cuộc sống kinh tế thị trường ngày nay, khi hầu hết các giá trị đều qui đổi thành hàng hóa, tiền bạc và lợi nhuận thì kiến thức từ các môn tự nhiên được phụ huynh và học sinh hết sức đề cao. Ngược lại các môn khoa học xã hội, đặc biệt như môn Sử, Địa… thì học sinh chỉ học cho qua loa, đại khái, thậm chí còn cảm thấy “chán ngán” nếu như giáo viên dạy môn đó không cải tiến phương pháp, dạy theo lối truyền thống... Câu hỏi “Học Lịch sử để làm gì?” cũng sẽ được qui về giá trị lợi ích mà nó đem lại. Điều này cũng được phản ánh rõ nét nhất bằng các kì thi tốt nghiệp THPT và kì thi ĐH, Cao đẳng những năm gần đây, số học sinh chọn thi môn Lịch sử ngày càng ít, thậm chí ở nhiều hội đồng thi còn không có em nào chọn thimôn Lịch sử.
Ở các trường THCS nói chung, đa số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học Lịch sử, ngay cả khi hỏi đến những mốc quan trọng nhất của lịch sử dân tộc nhiều em cũng không trả lời được, khi được giải đáp về câu hỏi đó thì cũng không hiểu gì về sự kiện lịch sử ấy.
Nếu không sớm cải cách môn Lịch sử ở cấp học phổ thông, khắc phục tình trạng sa sút đến mức báo động như hiện nay thì sẽ tạo ra những hẫng hụt về kiến thức lịch sử Việt Nam và thế giới, để lại những hậu quả rất đáng lo ngại trong kế thừa các giá trị di sản lịch sử và văn hóa dân tộc, trong gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, trong định hướng phát triển nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam, nhất là khi giao lưu và đối thoại với các nền văn minh, văn hóa trên thế giới.
Vì vậy, để khắc phục tình trạng thế hệ trẻ ngày càng mai một kiến thức lịch sử và không thích học môn Lịch sử, thì cần có rất nhiều chính sách và các biện pháp giáo dục học sinh trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm, kết quả học tập môn Lịch sử nói chung và lịch sử dân tộc nói riêng.Để giải quyếthiện trạng đó không phải một sớm một chiều và
cần đến sự chung tay, vào cuộc của tất cả các cấp, ngành. Nhưng trong số đó, người giáo viên đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giảng dạy phải tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó, giúp các em yêu thích và tự giác tiếp nhận các kiến thức môn Lịch sử. Có thể nói, đây không phải là vấn đề mới nhưng để thực hiện có hiệu quả là việc làm không dễ. Làm thế nào để học sinh yêu thích, hứng thú với môn Lịch sử? Làm thế nào để Lịch sử trở thành bộ môn được học sinh coi trọng như các môn học khác chính là vấn đề đặt ra với mỗigiáo viên ở mỗi trườnghọc, mỗi cấp họchiện nay.
PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất coi trọng việc dạy và học bộ môn Lịch sử. Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định trong hai câu thơ mở đầu trong cuốn “Lịch sử nước ta”: “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Không chỉ ở nước ta mà ở các nước tiên tiến trên thế giới cũng chú trọng việc dạy môn Lịch sử vì nó đào tạo con người có bản sắc dân tộc. Nhưng trong thực tế cũng không ít người cho rằng, môn Lịch sử là bộ môn học thuộc nặng về ghi nhớ những sự kiện năm tháng dài lê thê và xếp vào môn phụ, vì vậy ảnh hưởng không tốt vào mục tiêu đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Bởi nhiều lí do, trong đó có lí do cuộc sống kinh tế thị trường ngày nay, khi hầu hết các giá trị đều qui đổi thành hàng hóa, tiền bạc và lợi nhuận thì kiến thức từ các môn tự nhiên được phụ huynh và học sinh hết sức đề cao. Ngược lại các môn khoa học xã hội, đặc biệt như môn Sử, Địa thì học sinh chỉ học cho qua loa, đại khái, thậm chí còn cảm thấy “chán ngán” nếu như giáo viên dạy môn đó không cải tiến phương pháp, dạy theo lối truyền thống... Câu hỏi “Học Lịch sử để làm gì?” cũng sẽ được qui về giá trị lợi ích mà nó đem lại. Điều này cũng được phản ánh rõ nét nhất bằng các kì thi tốt nghiệp THPT và kì thi ĐH, Cao đẳng những năm gần đây, số học sinh chọn thi môn Lịch sử ngày càng ít, thậm chí ở nhiều hội đồng thi còn không có em nào chọn thi môn Lịch sử. Ở các trường THCS nói chung, đa số học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học Lịch sử, ngay cả khi hỏi đến những mốc quan trọng nhất của lịch sử dân tộc nhiều em cũng không trả lời được, khi được giải đáp về câu hỏi đó thì cũng không hiểu gì về sự kiện lịch sử ấy. Nếu không sớm cải cách môn Lịch sử ở cấp học phổ thông, khắc phục tình trạng sa sút đến mức báo động như hiện nay thì sẽ tạo ra những hẫng hụt về kiến thức lịch sử Việt Nam và thế giới, để lại những hậu quả rất đáng lo ngại trong kế thừa các giá trị di sản lịch sử và văn hóa dân tộc, trong gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, trong định hướng phát triển nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam, nhất là khi giao lưu và đối thoại với các nền văn minh, văn hóa trên thế giới. Vì vậy, để khắc phục tình trạng thế hệ trẻ ngày càng mai một kiến thức lịch sử và không thích học môn Lịch sử, thì cần có rất nhiều chính sách và các biện pháp giáo dục học sinh trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm, kết quả học tập môn Lịch sử nói chung và lịch sử dân tộc nói riêng. Để giải quyết hiện trạng đó không phải một sớm một chiều và cần đến sự chung tay, vào cuộc của tất cả các cấp, ngành. Nhưng trong số đó, người giáo viên đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giảng dạy phải tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó, giúp các em yêu thích và tự giác tiếp nhận các kiến thức môn Lịch sử. Có thể nói, đây không phải là vấn đề mới nhưng để thực hiện có hiệu quả là việc làm không dễ. Làm thế nào để học sinh yêu thích, hứng thú với môn Lịch sử? Làm thế nào để Lịch sử trở thành bộ môn được học sinh coi trọng như các môn học khác chính là vấn đề đặt ra với mỗi giáo viên ở mỗi trường học, mỗi cấp học hiện nay. Để đạt được kết quả trên thì việc áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy vào tiết học lịch sử là rất quan trọng. Bản thân là một giáo viên lịch sử có gần mười năm thực tế trong giảng dạy, tôi luôn tìm cho mình một hướng đi phù hợp với bộ môn vừa đồng thời tạo ra cho thầy và trò một tâm thế tốt để truyền đạt và tiếp thu bài học lịch sử một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy, nhiều năm qua tôi luôn gây hứng thú cho học sinh bằng cách vận dụng những kiến thức môn Ngữ văn đưa vào bài học lịch sử và đã thu được kết quả rất tốt. Tôi muốn chia sẻ như một kinh nghiệm để cùng các đồng nghiệp trao đổi và có thể rút ra cho mình cách dạy hay nhất. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi xin đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: “Tích hợp với bộ môn Ngữ văn để tạo hứng thú và hiệu quả học tập trong dạy học Lịch sử ở trường THCS” Mục đích nghiên cứu Rút kinh nghiệm trong việc tích hợp kiến thức môn Ngữ văn trong giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS, nhằm đưa ra những cách dạy học tối ưu nhất, góp phần nâng cao khả năng tích hợp kiến thức liên môn cho giáo viên. Giúp học sinh có khả năng nhận thức kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức. Giúp cho đồng nghiệp - giáo viên dạy môn Lịch sử cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực, nhằm giúp cho học sinh yêu thích học tập môn Lịch sử, đồng thời học sinh nắm vững kiến thức, để từ đó nâng cao được chất lượng môn học này ở trường THCS. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu các tư liệu liên quan đến việc thực hiện đề tài, nghiên cứu tâm lý học sinh, nghiên cứu về các phương pháp tích hợp liên môn trong giảng dạy để đúc rút kinh nghiệm. Từ đó để tạo hứng thú và hiệu quả cho việc học tập môn Lịch sử của học sinh THCS. Đối tượng và khách thể nghiên cứu Áp dụng cho nhiều bài học Lịch sử cấp THCS phù hợp với chuẩn kiến thức kĩ năng, giới hạn trong việc tạo kĩ năng tích hợp liên môn cho giáo viên và học sinh, giúp học sinh hình thành kĩ năng, phương pháp học tập tốt hơn. Các tài liệu về phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử. Phương pháp nghiên cứu thực hiện đề tài Nghiên cứu, phân loại các tác phẩm văn học dân gian và văn học viết để đưa vào bài giảng. Đọc các tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học và phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh. Thực nghiệm có đối chứng. Khảo sát kết quả, bài học kinh nghiệm. Dự giờ đồng nghiệp để có so sánh đối chiếu. Chú trọng sinh hoạt nhóm để trao đổi kinh nghiệm Kế hoạch nghiên cứu Từ tháng 08 năm 2017 đến tháng 10 năm 2017: thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài. dạy. - Từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 02 năm 2018: + Kết hợp thao giảng, dự giờ đồng nghiệp và trao đổi, rút kinh nghiệm qua từng tiết + Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí. - Tháng 03 năm 2018: tiến hành viết sáng kiến kinh nghiệm. Cấu trúc sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) SKKN gồm phần mở đầu, phần nội dung, kết luận và khuyến nghị. Phần nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài. Chương 2: Thực trạng vấn đề hứng thú học tập môn Lịch sử của học sinh THCS hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp để tạo hứng thú, hiệu quả học tập cho học sinh THCS thông qua việc tích hợp với môn Ngữ văn trong dạy học Lịch sử. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tài liệu văn học rất cần thiết cho việc học tập, giảng dạy lịch sử nên có rất nhiều nhà nghiên cứu phương pháp trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, đầu tiên phải kể đến cuốn: “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” của tiến sĩ N.G Đai ri. Tác giả đã phân tích một cách thuyết phục vai trò, cách sử dụng SGK và các tài liệu học tập (bao gồm cả tài liệu văn học). Quyển “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông” tập 1 do P.P. Koropkin chủ biên đã dành một phần nội dung để trình bày về việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử. Ở trong nước, quyển “Phương pháp dạy học lịch sử” do GS. Phan Ngọc Liên chủ biên nói về vai trò và các biện pháp sử dụng tài liêu văn học trong dạy học. Trong quyển: “Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử” của các nhà nghiên cứ giáo dục GS.TS Phan Ngọc Liên, PGS. TS Trịnh Đình Tùng, GS- TS Nguyễn Thị Côi có phần “Sử dụng tài liệu Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử” có nói tới việc sử dụng tài liệu thơ ca Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử dân tộc. Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử còn đề cập đến rất nhiều trong tạp chí nghiên cứu lịch sử, khóa luận tốt nghiêp, luận văn thạc sĩ. Như vậy, vấn đề sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử đã được đề cập sâu rộng trong rất nhiều tài liệu trong và ngoài nước. Bản thân là một giáo viên lịch sử có gần mười năm thực tế trong giảng dạy, tôi luôn tìm cho mình một hướng đi phù hợp với bộ môn nhất và đặc biệt là trong những năm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, vừa đồng thời tạo ra cho thầy và trò một tâm thế tốt để truyền đạt và tiếp thu bài học lịch sử một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy, nhiều năm qua tôi luôn gây hứng thú cho học sinh bằng cách vận dụng những kiến thức môn Ngữ văn đưa vào bài học lịch sử và đã thu được kết quả rất tốt. Vì vậy, tôi muốn chia sẻ cùng các đồng nghiệp để từ đó có thể rút ra cho mình một cách dạy hay nhất. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài Cơ sở lý luận Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực, hứng thú của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn học với môn Lịch sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau “Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong việc xây dựng chương trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này” Từ năm học 2012 – 2013, Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy, việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Cơ sở thực tiễn Môn Lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người. Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại đó là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa họcnên chưa tạo được sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn. Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo viên lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn Lịch sử, mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn Địa lý, Ngữ văn, Nghệ thuật, Khoa họcđể vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng. Một số khái niệm cơ bản của đề tài Khái niệm hứng thú và hứng thú học tập Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Từ khái niệm về hứng thú ta có thể suy ra được định nghĩa của hứng thú học tập: hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân. Tầm quan trọng của hứng thú đối với các hoạt động sống và hoạt động học: Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào hành động đó. Ngược lại, nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực. Khái niệm tích hợp Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”. Tích hợp (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức: Integration) có nguồn gốc từ tiếng Latinh: Integration với nghĩa xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẽ. Nói ngắn gọn, tích hợp là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy động các yếu tố, nội dung gần và giống nhau, có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết, làm sáng tỏ vấn đề và cùng một lúc đạt được nhiều mục tiêu khác nhau. Dạy học tích hợp; tầm quan trọng của tích hợp trong dạy học và các mức độ tích hợp cơ bản trong dạy học * Khái niệm dạy học tích hợp Dạy học tích hợp là một quan niệm dạy học nhằm hình thành ở học sinh những năng lực giải quyết hiệu quả các tình huống thực tiễn dựa trên sự huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều đó cũng có nghĩa là đảm bảo để mỗi học sinh biết cách vận dụng kiến thức học được trong nhà trường vào các hoàn cảnh mới lạ, khó khăn, bất ngờ, qua đó trở thành một người công dân có trách nhiệm, một người lao động có năng lực. Dạy học tích hợp đòi hỏi việc học tập trong nhà trường phải được gắn với các tình huống của cuộc sống mà sau này học sinh có thể đối mặt, vì thế nó trở nên có ý nghĩa đối với các em. Với cách hiểu như vậy, dạy học tích hợp phải được thể hiện ở cả nội dung chương trình, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá, hình thức tổ chức dạy học. Như vậy, thực hiện dạy học tích hợp sẽ phát huy tối đa sự trưởng thành và phát triển cá nhân mỗi học sinh, giúp các em thành công trong vai trò của người chủ gia đình, người công dân, người lao động tương lai. Dạy học tích hợp là định hướng về nội dung và phương pháp dạy học, trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống. Tầm quan trọng của tích hợp trong dạy học Thứ nhất, do mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều ít nhiều có mối liên hệ với nhau. Nhiều sự vật, hiện tượng có những điểm tương đồng và cùng một nguồn cội Để nhận biết và giải quyết các sự vật, hiện tượng ấy, cần huy động tổng hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay đang ngày càng xuất hiện các môn khoa học “liên ngành”. Thứ hai, trong quá trình phát triển của khoa học và giáo dục, nhiều kiến thức, kĩ năng chưa hoặc chưa cần thiết trở thành một môn học trong nhà trường, nhưng lại rất cần trang bị cho HS để các em có thể đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Do đó cần tích hợp giáo dục các kiến thức và kĩ năng đó thông qua các môn học. Thứ ba, do tích hợp mà các kiến thức gần nhau, liên quan với nhau sẽ được nhập vào cùng một môn học nên số đầu môn học sẽ giảm bớt, tránh được sự trùng lặp không cần thiết về nội dung giữa các môn học nhằm giảm tải cho học sinh. Thứ tư, khi người giáo viên kết hợp tốt phương pháp dạy học tích hợp, sử dụng các hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống, ngoài giúp học sinh chủ động, tích cực say mê học tập còn lồng ghép được các nội dung khác nhau như: bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người thông qua các kiến thức thực tiễn đó. Từ đó giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt. Các mức độ tích hợp cơ bản trong dạy học Tích hợp đa môn: Tiếp cận tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học. Các môn liên quan với nhau có chung một định hướng về nội dung và phương pháp dạy học nhưng mỗi môn lại có một chương trình riêng. Tích hợp đa môn được thực hiện theo cách tổ chức các “chuẩn” từ các môn học xoay quanh một chủ đề, đề tài, dự án, tạo điều kiện cho người học vận dụng tổng hợp kiến thức của các môn học có liên quan. Tích hợp liên môn: Theo cách tiếp cận tích hợp liên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các nội dung học tập chung: các chủ đề, các khái niệm và kĩ năng liên ngành, liên môn. Tích hợp liên môn còn được hiểu như là phương án, trong đó nhiều môn học liên quan được kết lại thành một môn học mới với hệ thống những chủ đề nhất định xuyên suốt qua nhiều cấp lớp. Ví dụ: Địa lí, Lịch sử, Sinh học, Xã hội, Giáo dục công dân, Hoá học, Vật lí, Địa lí được tích hợp thành môn “Nghiên cứu xã hội và môi trường” tại Anh, Australia, Singapore, Thái Lan. Tích hợp xuyên môn: Trong cách tiếp cận tích hợp xuyên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các vấn đề và quan tâm của người học. Học sinh phát triển kĩ năng sống khi áp dụng các kĩ năng môn học và liên môn vào ngữ cảnh thực tế. Hai con đường dẫn đến tích hợp xuyên môn là học tập theo dự án và thương lượng chương trình học. Có thể coi tích hợp xuyên môn là đỉnh cao của tích hợp, khi mà ranh giới giữa các môn học bị xóa nhòa. Xu hướng sử dụng tích hợp kiến thức tổng hợp để tiếp cận tri thức trong dạy học Xuất phát từ những ưu điểm của dạy học tích hợp, tôi nhận thấy, dạy học tích hợp là cần thiết, một xu hướng tối ưu của lý luận dạy học ngày nay và đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đã thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học ở những mức độ nhất định. Trong những năn 70 và 80 vủa thế kỷ XX, UNESCO đã có những hội thảo với các báo cáo về việc thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học của các nước tới dự. Khi xây dựng chương trình giáo dục phổ thông, xu hướng chung của các nước trên thế giới hiện nay là tăng cường tích hợp, đặc biệt ở cấp tiểu học và THCS. Theo thống kê của UNESCO (từ năm 1960 – 1974) có 208/392 chương trình môn Khoa học trong chương trình giáo dục phổ thông các nước thể hiện quan điểm tích hợp ở các mức độ khác nhau. Một nghiên cứu mới đây của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam về chương trình giáo dục phổ thông 20 nước cho thấy 100% các nước đều xây dựng chương trình theo hướng tích hợp. Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ CỦA HỌC SINH THCS HIỆN NAY Thực trạng vấn đề hứng thú học tập của học sinh THCS trong môn Lịch sử Tính hứng thú học tập nói chung và trong môn Lịch sử nói riêng được biểu hiện thông qua nhiều đặc điểm sắc thái khác nhau, trước hết nó được nhìn nhận, biết đến thông qua những thái độ, xúc cảm của người học cụ thể như thái độ của người học như nào đối với môn Lịch sử trên những bình diện thích học, không thích học hay chỉ là bình thường, sau đó là những đánh giá về vai trò, vị trí của môn học trong quá trình dạy và học. Tuy nhiên, không phải với bất cứ học sinh nào cũng có cái nhìn, lời đánh giá chính xác về môn học đó. Vậy thì thái độ của học sinh THCS đối với môn Lịch sử được thể hiện như nào chúng ta đi vào tìm hiểu. Cuộc khảo sát về thái độ học tập của 250 học sinh ở một trường THCS (trong đó có 197 phiếu hợp lệ) cho được kết quả như sau: Bảng 2.1: Thái độ của HS đối với môn Lịch sử Thái độ Số lượng Tỷ lệ % Rất thích học 10 5,08 Thích học 40 20,30 Bình thường 136 69,04 Không thích học 11 5,58 Qua bảng 2.1, đã phản ảnh được rằng một số học sinh đã có sự yêu thích đối với môn Lịch sử nhưng cũng có đến 70% các em học sinh có thái độ “bình thường” đối với môn học này. Thái độ bình thường ở đây có thể quy ra một cách cụ thể thành những biểu hiện như thờ ơ, hờ hững với môn học Lịch sử - môn học được cho là nhiều chữ, nhiều sự kiện. Qua kết quả khảo sát chúng ta thấy, học sinh THCS hiện nay và thực tế từ rất lâu các em đều không quan tâm nhiều đến môn Lịc
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_voi_bo_mon_ngu_van_de_tao_hun.docx
- Lịch_sử_Truong_Thi_Phuong.pdf