Sáng kiến kinh nghiệm Thu hút học sinh dân tộc thiểu số học Tiếng Anh
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Các định nghĩa, khái niệm
1.1. Khái niệm môn Tiếng Anh
Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông từ lớp 3 đến lớp 12. Là một trong những môn học công cụ ở trường phổ thông, môn Tiếng Anh không chỉ giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh mà còn góp phần hình thành và phát triển các năng lực chung, để sống và làm việc hiệu quả hơn, để học tập tốt các môn học khác cũng như để học suốt đời.
1.2. Khái niệm thu hút
Thu hút là tạo nên ấn tượng mạnh mẽ để người khác quan tâm và dồn mọi sự chú ý vào.
2. Cơ sở lý luận
Việc tạo thu hút đối với học sinh dân tộc thiểu số học Tiếng Anh là điều quan trọng và cần thiết đối với giáo viên dạy bộ môn. Với những lý do nêu trên đòi hỏi giáo viên phải học tập, sáng tạo, trau dồi và phát huy năng lực bản thân, yêu thương, dành tình cảm cho học sinh để tạo ra hiệu quả trong công tác giảng dạy phù hợp với hoàn cảnh địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
3. Các cơ sở và pháp lý có liên quan
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
Khoản 2, Điều 28, Luật Giáo dục Việt Nam năm 2005 quy định “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
4. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
Qua thực trạng học sinh dân tộc học Tiếng Anh ở trường tôi cùng với việc trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, tìm hiểu các kênh thông tin, tôi nhận thấy chưa có giáo viên nào nghiên cứu về vấn đề làm thế nào để thu hút học sinh dân tộc thiểu số học Tiếng Anh. Cho nên cùng với việc học tập, tìm hiểu, kết hợp với việc giảng dạy thực tế, tôi mạnh dạn áp dụng các giải pháp nhằm thu hút học sinh dân tộc học Tiếng Anh từ năm học 2015-2016 đến hết năm học 2017-2018 và đạt được những kết quả khả quan.
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc trang bị cho mình vốn kiến thức về ngoại ngữ đặc biệt là Tiếng Anh rất quan trọng và cần thiết. Đối với mỗi cá nhân từ những người đang công tác, có vị trí làm việc trong xã hội đều nhất thiết phải biết ít nhất một ngoại ngữ để phục vụ cho công tác chuyên môn nghề nghiệp của mình. Đối với học sinh thì việc biết được tầm quan trọng và sự cần thiết để nắm rõ, hiểu về ngôn ngữ mới, đặc biệt là Tiếng Anh ngay từ khi còn trên ghế nhà trường là điều vô cùng cần thiết và được coi như một lợi thế nếu biết nắm bắt cơ hội học tập và phát triển. Với xu thế và nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay, Tiếng Anh được coi là ngôn ngữ chung của toàn cầu, vì vậy mỗi học sinh ngay từ bây giờ phải trang bị cho mình kiến thức và kỹ năng phù hợp với điều kiện, trình độ, lứa tuổi và cấp học để làm nền tảng cho sự phát triển sau này. Là một giáo viên giảng dạy môn Tiếng Anh cấp Trung học cơ sở, bản thân tôi nhận thấy trong 4 năm công tác có những lợi thế song cũng gặp không ít khó khăn nhất định khi giảng dạy. Đối với mỗi giáo viên ngoài kiến thức về chyên môn, hiểu biết về xã hội, phong cách sống, cách truyền cảm hứng thì việc đổi mới phương pháp dạy học là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc tạo thu hút học sinh yêu mến môn học cũng như tạo hứng thú cho các em trong học tập môn học. Là một trường thuộc vùng sâu vùng xa, vùng thôn buôn đặc biệt khó khăn của huyện Krông Ana, trường THCS Dur Kmăn nơi tôi đang công tác có tổng số học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao (trên 51%), đa số là học sinh dân tộc Êđê, Tày, Nùngthuộc xã vùng xa nên đường xá đi lại của các em gặp nhiều khó khăn, điều kiện tiếp xúc với internet, báo chí, công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế, con em thuộc hộ nghèo còn nhiều (khoảng 30%). Bên cạnh đó nhiều các em chưa có ý thức tự giác học tập ở các môn học nói nói chung đặc biệt là ở bộ môn Tiếng Anh. Một số em có thái độ thờ ơ, xem nhẹ môn học, học một cách đối phó. Môi trường học tập, tiếp xúc với ngôn ngữ Tiếng Việt còn nhiều hạn chế thì đối với ngôn ngữ Tiếng Anh chắc chắn sẽ gặp rất nhiều trở ngại. Một số em chưa đọc thông viết thạo, chưa thành thạo Tiếng Việt chưa có điều kiện, môi trường tiếp xúc nhiều với Tiếng Việt dẫn tới sự hình dung, học tập và rèn luyện ngôn ngữ Tiếng Anh gặp muôn vàn khó khăn, bỡ ngỡ. Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông nhưng đa số các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số chưa xác định được động cơ học tập nên việc tạo thu hút học tập đối với các môn học nói chung và môn Tiếng Anh nói riêng còn nhiều khó khăn, trở ngại. Những bất cập trong thực tiễn giảng dạy trên hoàn toàn không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội nói chung và sự phát triển của giáo dục nói riêng trong thời đại mới. Qua quá trình trao đổi với đồng nghiệp, tìm hiểu các kênh thông tin: sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng tôi nhận thấy chưa có giáo viên nào nghiên cứu về vấn đề này. Từ việc giảng dạy thực tế cùng với lòng nhiệt huyết, tôi luôn trăn trở để tìm ra phương án sát thực, phù hợp với đối tượng học sinh ở vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn nơi công tác. Làm thế nào để thu hút học sinh dân tộc thiểu số học được bộ môn này, để thu hút được cần phải có những biện pháp, thủ thuật gì để tạo hứng thú, kích thích trí tò mò, sáng tạo cho các em, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học ở bộ môn và quan trọng là phát triển kỹ năng cho các em sau này. Xuất phát từ những nguyên nhân trên cùng với sự góp ý của đồng nghiệp, quý thầy cô và sự trải nghiệm của bản thân, tôi đúc kết ra được “Một số kinh nghiệm trong việc thu hút học sinh dân tộc thiểu số học Tiếng Anh” và thu lại được những kết quả nhất định trong quá trình công tác giảng dạy. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nhiệm vụ của đề tài tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu những giải pháp, nghiên cứu các biện pháp có tính khả thi và phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi đồng thời phù hợp với đặc điểm của địa phương nhằm tạo ra sự thu hút đối với tất cả các em học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng trong việc học Tiếng Anh tại trường THCS Dur Kmăn, xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana. Mục đích của đề tài là tạo ra sự thu hút đối với học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng trong việc học Tiếng Anh giúp học sinh cảm thấy hào hứng khi học, tránh được tâm lý sợ sệt, nhút nhát tạo cảm giác thoải mái trong các tiết học. Đặc biệt các biện pháp thu hút học sinh học Tiếng Anh còn giúp các em cảm thấy thú vị, hào hứng học tập, khơi dậy trí tò mò, kích thích các giác quan nghe, nhìn, vận động để tiết học hiệu quả ngay từ ban đầu và xuyên suốt trong tiết học ở lớp và nâng cao tinh thần tự giác học tập. Học sinh cảm thấy yêu môn học, hào hứng một cách tự nhiên mà không chịu sự ép buộc. Từ đó kết quả học tập được cải thiện và nâng cao qua các bài kiểm tra thường xuyên và định kì. Điều quan trọng hơn cả với việc gây hứng thú, thu hút sự học tập của học sinh nhất là học sinh dân tộc thiểu số giúp các em phát triển bản thân, có kiến thức, kĩ năng nhất định đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ 1. Các định nghĩa, khái niệm 1.1. Khái niệm môn Tiếng Anh Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông từ lớp 3 đến lớp 12. Là một trong những môn học công cụ ở trường phổ thông, môn Tiếng Anh không chỉ giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh mà còn góp phần hình thành và phát triển các năng lực chung, để sống và làm việc hiệu quả hơn, để học tập tốt các môn học khác cũng như để học suốt đời. 1.2. Khái niệm thu hút Thu hút là tạo nên ấn tượng mạnh mẽ để người khác quan tâm và dồn mọi sự chú ý vào. 2. Cơ sở lý luận Việc tạo thu hút đối với học sinh dân tộc thiểu số học Tiếng Anh là điều quan trọng và cần thiết đối với giáo viên dạy bộ môn. Với những lý do nêu trên đòi hỏi giáo viên phải học tập, sáng tạo, trau dồi và phát huy năng lực bản thân, yêu thương, dành tình cảm cho học sinh để tạo ra hiệu quả trong công tác giảng dạy phù hợp với hoàn cảnh địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. 3. Các cơ sở và pháp lý có liên quan Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Khoản 2, Điều 28, Luật Giáo dục Việt Nam năm 2005 quy định “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” 4. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu Qua thực trạng học sinh dân tộc học Tiếng Anh ở trường tôi cùng với việc trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, tìm hiểu các kênh thông tin, tôi nhận thấy chưa có giáo viên nào nghiên cứu về vấn đề làm thế nào để thu hút học sinh dân tộc thiểu số học Tiếng Anh. Cho nên cùng với việc học tập, tìm hiểu, kết hợp với việc giảng dạy thực tế, tôi mạnh dạn áp dụng các giải pháp nhằm thu hút học sinh dân tộc học Tiếng Anh từ năm học 2015-2016 đến hết năm học 2017-2018 và đạt được những kết quả khả quan. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ Với thực trạng đất nước đang đổi mới, giảng dạy ngôn ngữ nước ngoài, đặc biệt ngôn ngữ Tiếng Anh ngày càng trở nên chú trọng. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy truyền thống lấy hoạt động của người dạy làm trung tâm không còn phù hợp với sự phát triển của giáo dục, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, đòi hỏi phải có phương pháp mới hiệu quả, hiện đại hơn đó là giáo viên là người đưa ra những gợi mở cho một vấn đề và cùng học sinh bàn luận, tìm ra mấu chốt vấn đề cũng như những vấn đề liên quan. Phương pháp này lấy sự chủ động tìm tòi, sáng tạo, tư duy của học sinh làm nền tảng, giáo viên, gia sư chỉ là người dẫn dắt và gợi mở vấn đề. Thực tế cho thấy công tác giảng dạy môn Tiếng Anh ở trường THCS Dur Kmăn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn nhất định. Thứ nhất: là một trường thuộc vùng sâu vùng xa, tổng số học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao, đa số là học sinh dân tộc Êđê, Tày, NùngThuộc xã vùng xa nên đường xá đi lại của các em gặp nhiều khó khăn, khoảng cách từ nhà tới trường ở buôn xa nhất cũng tới hàng chục ki lô mét, các em xa ở lại bán trú, có em cố gắng đi bộ, đi xe đạp. Điều kiện tiếp xúc với internet, báo chí, công nghệ còn nhiều hạn chế. Giới hạn về khoảng cách địa lý môi trường là trở ngại đầu tiên trong con đường dẫn tới thành công trong học tập của các em. Thứ hai: Học sinh đồng bào dân tộc thiểu số và có điều kiện kinh tế khó khăn, học sinh là con em hộ nghèo và cận nghèo, gia đình có mức thu nhập thấp, không ổn định. Do đó sự quan tâm, đầu tư thời gian, công sức của gia đình cho việc học của con em nói chung và học Tiếng Anh nói riêng còn ít. Ngoài việc học các em còn phải phụ giúp gia đình như làm việc nhà, chăn nuôi gia súc, lên nương rẫy, thậm chí đi làm thuê để kiếm thêm thu nhập, nhiều em phải là trụ cột kiếm sống trong gia đình. Thứ ba: Nhiều học sinh chưa có ý thức tự giác học tập ở các môn học nói nói chung đặc biệt là ở bộ môn Tiếng Anh. Một số em có thái độ thờ ơ, xem nhẹ môn học, học cho vui, học đối phó và không thực sự yêu thích môn học. Thứ tư: Học sinh dân tộc thiểu số khi bước vào những giai đoạn thử thách khác nhau như môi trường học tập, hoạt động, tiếp xúc với ngôn ngữ Tiếng Việt đã khó thì đối với ngôn ngữ Tiếng Anh chắc chắn sẽ gặp rất nhiều trở ngại. Một số em chưa đọc thông viết thạo, chưa thành thạo Tiếng Việt chưa có điều kiện, môi trường tiếp xúc nhiều với Tiếng Việt dẫn tới sự hình dung, học tập và rèn luyện ngôn ngữ Tiếng Anh gặp muôn vàn khó khăn, bỡ ngỡ. Thứ năm: Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông từ lớp 3 đến lớp 12. Học sinh ở các trường vùng thuận lợi thậm chí đã đưa Tiếng Anh vào giảng dạy ngay từ khi học lớp 1. Các kì thi trung học phổ thông quốc gia gần đây cũng đưa ngoại ngữ Tiếng Anh vào làm một trong 4 môn thi bắt buộc. Như vậy chúng ta thấy được tầm quan trọng của việc học bộ môn Tiếng Anh trong thời đại nay và việc các em được làm quen với Tiếng Anh từ rất sớm là một lợi thế. Qua khảo sát, tổng hợp số liệu năm học 2015 - 2016, kết quả học sinh dân tộc thiểu số khối 8 đạt được ở bộ môn Tiếng Anh như sau: Kết quả xếp loại bộ môn Tiếng Anh khối 8 - năm học 2015 - 2016: Lớp Tổng số Học sinh dân tộc Ghi chú G TL K TL Tb TL Y TL Kém TL 8a1 10 0 0% 1 10% 5 50% 3 30% 1 10% Trước khi áp dụng đề tài 8a2 12 0 0% 2 16.7% 5 41.6% 3 25% 2 16.7% 8a3 4 0 0% 2 50% 2 50% 0 0% 0 0% Tổng 26 0 0% 5 19.2% 12 46.2% 6 23% 3 11.6% Kết quả cho thấy, trước khi chưa áp dụng đề tài: tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số năm học 2015 – 2016 ở khối 8 có học lực khá, giỏi chiếm tỉ lệ thấp 19.2%. Học sinh trung bình ở bộ môn chiếm tỉ lệ cao: 46.2%, vẫn còn tình trạng học sinh học yếu chiếm tỉ lệ 23%. Tỉ lệ học sinh kém chiếm tỉ lệ cao 11.6%. Kết quả cho thấy, học lực của học sinh không đồng đều và chất lượng ở bộ môn còn thấp một phần do điều kiện kinh tế nên sự quan tâm, đầu tư của gia đình cho việc học các em về việc học tập nói chung và học Tiếng Anh nói riêng còn hạn chế. Bên cạnh đó còn một số học sinh tỏ thái độ thờ ơ với môn học vì thực tế đời sống dân trí còn nghèo, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ nhất là bôn môn Tiếng Anh, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần học tập của các em. Sự khó khăn trong vấn đề giao tiếp gặp nhiều trở ngại không chỉ ở Tiếng Anh mà bắt đầu ngay khi học Tiếng Việt, các em học sinh dân tộc thiểu số gặp rất nhiều trở ngại về ngôn ngữ, về tâm lý, về môi trường giao tiếp. Từ thực tế trên tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng học tập của học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng thì điều đầu tiên người giáo viên phải làm là tạo sự thu hút, làm cho học sinh hứng thú, ham muốn học tập, tạo sự tò mò và muốn biết được những điều mình sắp được học. Học sinh cần được tham gia tích cực và chủ động vào môi trường giao tiếp đa dạng với các hoạt động tương tác như trò chơi, bài hát, kể chuyện, câu lạc bộ dưới sự hướng dẫn của giáo viên để hình thành các kĩ năng ngôn ngữ, tạo không gian học tập nhẹ nhàng, thú vị và hấp dẫn cho người học. III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Giải pháp 1: Tiếp cận lớp, nắm bắt đối tượng học sinh. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh. Sau khi có được danh sách lớp, làm quen với tên của các em, tôi tìm hiểu sơ lược hoàn cảnh sinh sống của gia đình: bao nhiêu em thuộc hộ khó khăn? bao nhiêu em có sổ hộ nghèo? Công việc thường ngày của học sinh ở nhà là gì và nhà có bao nhiêu anh em? Ngoài ra, tôi còn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp năm trước để nắm rõ hơn về hoàn cảnh gia đình cũng như học lực của từng học sinh. Sau đó tôi tập hợp thành một quyển sổ theo dõi, phân loại đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh khó khăn để gần gũi, thấu hiểu các em hơn. Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện pháp giáo dục thích hợp. Tìm hiểu kĩ về hoàn cảnh gia đình và năng lực học qua năm học trước, tôi tìm hiểu môi trường và hoàn cảnh sống của các em, bởi vì đó chính là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách của các em ngay từ thuở ban đầu. Để các em hình thành cho mình một hướng đi tốt nhất. Tìm hiểu qua phiếu thông tin (điều tra sơ yếu lý lịch): Phiếu thông tin này ngoài những thông tin cơ bản: Họ tên bố, mẹ; địa chỉ, hoàn cảnh sống, các thành viên trong gia đình, là con thứ mấy, sở thích Tìm hiểu hoàn cảnh học sinh trực tiếp bằng cách: đến tại gia đình các em, tiếp xúc với bố mẹ các em để biết cụ thể hoàn cảnh của những học sinh này và trao đổi tình hình học tập của những học sinh đó. Tìm hiểu tính cách các em qua bạn bè trong lớp, qua các thầy cô bộ môn. Tìm hiểu qua thôn, buôn (thông qua buôn trưởng). Việc nắm bắt, phân loại đối tượng học sinh giúp tôi nắm rõ hoàn cảnh và học lực cũng như tính cách của từng em, từ đó đưa ra được biện pháp giáo dục trực tiếp, gần gũi, an ủi động viên và khích lệ kịp thời những kết quả đạt được, dù những ưu điểm nhỏ nhất. Giải pháp 2: Luôn xuất hiện với một thần thái khiến học sinh yêu thích trong mỗi giờ lên lớp. Tạo ra thần thái và sự cuốn hút ngay từ khi bước vào lớp. Đây là điều cực kì quan trọng để bắt đầu một bài giảng và là nhân tố quyết định sự thành công của bài giảng. Đôi khi, trong quá trình kiểm tra bài cũ, có những lúc thầy cô chưa hài lòng về việc học bài của học sinh, thầy cô có những cảm giác bực dọc, khó chịu mang theo trong suốt tiết dạy; Tuy nhiên không phải vì những xúc cảm đó mà thầy cô lại mất bình tĩnh, thay vào đó thầy cô luôn giữ phong thái tốt trên nét mặt, cử chỉ, cố gắng kiềm chế cảm xúc và không thể hiện qua khuôn mặt để học sinh có thể cảm nhận được lòng bao dung, khoan nhượng cũng như tình cảm của thầy cô với mục đích cuối cùng là hướng tới thiện chí tốt đẹp cho học sinh. Tạo sự vui vẻ, luôn quan tâm, gần gũi để các em học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng để các em cảm nhận được tình yêu thương, sự quan tâm của thầy cô dành cho trò. Từ đó các em thêm yêu quý, kính trọng thầy cô dần tiến tới yêu quý môn học. - Tạo thần thái tốt bằng cách tự trang bị, rèn luyện kĩ năng trước đám đông một cách thường xuyên, trang bị đầy đủ vốn kiến thức để tự tin trước mọi vấn đề. Giải pháp 3: Khai thác đối tượng học sinh giúp các em phát huy hết khả năng vốn có và tiềm ẩn. - Trong mỗi giờ học, giáo viên khai thác các đối tượng học sinh, nắm bắt học sinh khá giỏi để cùng giúp đỡ, đồng hành cùng học sinh yếu kém. - Tránh phê bình, la rầy, nói lời xúc phạm tới nhân phẩm, danh dự của các em. Thay vào đó là sự khích lệ, động viên tinh thần, khen đúng nơi, đúng lúc. Giải pháp 4: Thiết kế, chuẩn bị bài học phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số. - Với chương trình sách giáo khoa và mục tiêu của mỗi bài học cần phải đạt, đối với học sinh đại trà các em có thể đạt được hầu hết các mục tiêu. Tuy nhiên đối với học sinh dân tộc thiểu số, đây là một khó khăn, rào cản. Do đó, lựa chọn chủ đề quen thuộc, gần gũi, phù hợp với đời sống giao tiếp hàng ngày, cùng với đó là việc thiết kế bài phù hợp với đối tượng học sinh là vô cùng quan trọng và cần thiết. Tránh gây khó khăn, nhàm chán cho các em trong việc tiếp cận bài học. Ví dụ: Bài tập nghe Sách giáo khoa Tiếng Anh 8 Unit 12: A VACATION ABROAD Listen to the weather reports. Then fill in the blanks in the table with the information you hear. The words in the boxes may help you. Weather Cloudy cold cool dry fine humid rainy snowy sunny warm wet windy Temperature Low: minus five degrees (Centigrade) (-50C), zero degree (0C), three degrees (30C), ect. High: twenty-two degrees (Centigrade) 220C, thirty degrees (300C), Thirty-two degrees (320C), ect. City Weather Temperature Low High Sydney _dry__, _windy_ ______ __26____ Tokyo _____, _____ __15__ ______ London _____, _cold__ ______ ______ Bangkok _warm_, _____ ______ ______ New York _____, _____ ______ __15____ Paris _____, _____ __10__ ______ Nếu yêu cầu học sinh nghe theo yêu cầu của sách giáo khoa chắc chắn không thể nào các em hoàn thành bài nghe đúng yêu cầu vì thế tôi đã thiết kế lại bài tập nghe này như sau: Listen to the weather reports. Then fill in the blanks in the table with the information you hear. The words in the boxes may help you. Weather Temperature Low High Humid 8 22 Cool 20 32 City Weather Temperature Low High Sydney _dry__, _windy_ a)______ __26____ Tokyo __dry_, _windy_ __15__ b)______ London c)_____, _cold__ __-3____ __7____ Bangkok _warm_, _dry___ __24____ d)______ New York _windy, _cloudy_ e)______ __15____ Paris f)____, _dry__ __10__ ______ Như vậy, bằng cách quy định số thông tin cần điền từ a-> f, học sinh dễ xác định thứ tự vị trí thông tin cần điền. Bên cạnh đó giáo viên yêu cầu học sinh điền thông tin một cách đơn giản về thời tiết, nhiệt độ cao, nhiệt độ thấp một cách ngắn gọn thì việc nghe của học sinh sẽ trở nên dễ dàng hơn, bài tập được thiết kế không nhấn mạnh hay yêu cầu các em phải nghe và điền được hết các thông tin. - Để có bài học phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên phải là người chủ động tìm tòi, học hỏi, đặt vào vị trí của học sinh, dự đoán các tình huống xảy ra trong quá trình học tập. Giải pháp 5: Thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học, tạo tâm lý thoải mái, hứng thú cho học sinh, tăng cường dạy học trải nghiệm sáng tạo. - Tạo tư tưởng thoải mái ngay từ khi bắt đầu bài học. Khi bắt đầu một bài học, giáo viên linh động áp dụng một số trò chơi ngắn, bài hát hoặc tạo ra một số hoạt động khởi động để bắt đầu, mục đích tạo sự vận động và giúp các em cảm thấy thoải mái trước khi bước vào bài học. Để có một sự khởi đầu hoàn hảo, giáo viên cần phải có sự chuẩn bị về ý tưởng cũng như các tào liệu tham khảo, dụng cụ, đồ dùng liên quan tới hoạt động đầu tiên của buổi học. Ví dụ: Bài Nghe Sách giáo khoa Tiếng Anh 8 Unit 10, để bắt đầu hoạt động khởi động dẫn vào bài, thay vì kiểm tra kiểm tra từ vựng của học sinh đã học ở bài trước, tôi tổ chức cho học sinh chơi một trò chơi nhỏ “Guessing word”. Giáo viên yêu cầu học sinh nhìn vào bức tranh trên màn hình và để cho học sinh đoán ô chữ dẫn vào bài. Việc thiết kế phần mở đầu bài học như vậy giúp các em cảm thấy thoải mái, tự tin trước khi bước vào bài học mới. Hình 1. Slide minh họa phần “Gessing word” T: asks students to work individually to guess the word Ss: work individually T: checks and gives marks or bonus marks, then leads to the new lesson. T: look, listen and remember. - Đặt ra các tình huống gần gũi, thiết thực để mở đầu bài học hoặc tạo ra tình huống ngay trong lớp học giúp học sinh ghi nhớ sâu hơn về từ vựng. Lấy ví dụ minh họa ngắn gọn, dễ hiểu cho các em. Ví dụ: Sách giáo khoa Tiếng Anh 8 Unit 12 - Lesson 2: SPEAK. Để giới thiệu cấ
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_thu_hut_hoc_sinh_dan_toc_thieu_so_hoc.doc