Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận chứng minh cho học sinh Lớp 8

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận chứng minh cho học sinh Lớp 8

Trong những năm gần đây, việc dạy văn đã và đang trở thành một vấn đề nóng bỏng ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội. Dư luận cho rằng: Đã có nhiều giờ dạy văn khá thành công, người thầy dường như nhập thân vào bài giảng và đã truyền được tình yêu văn chương đến học trò. Song cũng có không ít giờ văn kém hấp dẫn và tâm huyết ở người thầy đã vơi cạn cho nên học trò chưa thực sự thích thú. Tìm được hứng thú trong giờ dạy văn cho học sinh đã khó nhưng việc rèn kỹ năng viết văn nghị luận cho học sinh lại càng khó hơn.

Trong chương trình Ngữ Văn Trung học cơ sở, bộ môn ngữ văn cung cấp cho học sinh kiến thức và kỹ năng xây dựng các kiểu văn bản với những phương thức biểu đạt như: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và văn bản hành chính công vụ. Với phương pháp tích hợp, ở từng khối lớp các em được đọc – hiểu Văn bản trước mỗi bài, làm ngữ liệu để hình thành cách thức tạo lập kiểu văn bản phù hợp. Các kiểu văn bản tự sự miêu tả và biểu cảm các em đã được làm quen ở các lớp dưới (cấp Tiểu học), nhưng kiểu văn bản nghị luận thì hoàn toàn mới do các em chưa được học. Lên học kì II lớp 7, các em bắt đầu làm quen với kiểu văn bản này. Ở lớp 8 các em đã tiếp xúc dần với kiểu văn bản nghị luận trong đó có các yếu tố miểu tả, tự sự, nghị luận. các em càng lớn lên càng có khả năng nâng cao cấp độ nhận thức, hình thành và phát triển các năng lực đánh giá, nhận xét một vấn đề trong đời sống xã hội và một vấn đề văn học sau này (lớp 9).

Để làm bài nghị luận có kết quả tốt Văn nghị luận đòi hỏi các em phải có kiến thức sâu rộng, có óc suy luận, phân tích tổng hợp. Ngay buổi ban đầu (lớp 7) tiếp xúc với kiểu văn bản này, các em đã hiểu được khái niệm phương pháp làm bài Nghị luân thông qua nhiều hình thức học tập, đặc biệt là thực hành những bài nghị luận đơn giản, lên các lớp trên các em mới có thể tạo lập được một văn bản nghị luận đạt hiệu quả. Lớp 8 học sâu hơn khi các em biết xây dựng đoạn văn hoàn chỉnh.

doc 18 trang Mai Loan 21/07/2025 130
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận chứng minh cho học sinh Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BÁO CÁO KẾT QUẢ
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
 Môn Ngữ văn trong chương trình THCS nói riêng và trong các cấp học 
nói chung có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe - nói - đọc - 
viết”. Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp các 
phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn 
bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan 
trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri thức, 
trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác 
trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản, và dưới dạng 
viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính 
vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. 
Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Ngữ văn nói 
chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy 
tập làm văn như thế nào để học sinh viết tốt bài văn của mình? Cách thức tổ 
chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn?
 Chính vì vậy mà việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS 
là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó 
giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các 
em ngay khi đang học bậc THCS và trưởng thành sau này. 
 Bản thân là một cán bộ quản lý, song ngoài công việc chính của bản thân 
tôi vẫn trực tiếp giảng dạy một lớp thuộc chuyên môn chính. Vì thế trong quá 
trình đứng lớp tôi đã nhận ra một vài vấn đề còn bất cập trong bộ môn của mình. 
Quả thực dạy cho các em có được hứng thú, niềm say mê yêu thích môn văn học 
đã khó, nay giúp các em tự diễn đạt, trình bày suy nghĩ của mình thành văn bản 
lại là một điều khó hơn. Đặc biệt là văn nghị luận chứng minh
 Có thể nhận thấy Văn nghị luận chứng minh một trong những thể loại 
khó của phân môn Tập làm văn. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học 
tập của những tiết học này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường 
ngại nói, ngại viết. Nên viết, rèn cho các em biết cách diễn đạt, lập luận một văn 
bản nghị luận là một vấn đề mà chúng ta cần quan tâm.
 Trong thực tế dạy học tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng 
được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn 
còn hiện tượng lạc đề, lệch đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn 
trong bài thường sai quy cách. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự 
liên kết.
 1 nhiều giờ dạy văn khá thành công, người thầy dường như nhập thân vào bài 
giảng và đã truyền được tình yêu văn chương đến học trò. Song cũng có không ít 
giờ văn kém hấp dẫn và tâm huyết ở người thầy đã vơi cạn cho nên học trò chưa 
thực sự thích thú. Tìm được hứng thú trong giờ dạy văn cho học sinh đã khó 
nhưng việc rèn kỹ năng viết văn nghị luận cho học sinh lại càng khó hơn.
 Trong chương trình Ngữ Văn Trung học cơ sở, bộ môn ngữ văn cung cấp 
cho học sinh kiến thức và kỹ năng xây dựng các kiểu văn bản với những phương 
thức biểu đạt như: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và văn bản 
hành chính công vụ. Với phương pháp tích hợp, ở từng khối lớp các em được 
đọc – hiểu Văn bản trước mỗi bài, làm ngữ liệu để hình thành cách thức tạo lập 
kiểu văn bản phù hợp. Các kiểu văn bản tự sự miêu tả và biểu cảm các em đã 
được làm quen ở các lớp dưới (cấp Tiểu học), nhưng kiểu văn bản nghị luận thì 
hoàn toàn mới do các em chưa được học. Lên học kì II lớp 7, các em bắt đầu 
làm quen với kiểu văn bản này. Ở lớp 8 các em đã tiếp xúc dần với kiểu văn bản 
nghị luận trong đó có các yếu tố miểu tả, tự sự, nghị luận. các em càng lớn lên 
càng có khả năng nâng cao cấp độ nhận thức, hình thành và phát triển các năng 
lực đánh giá, nhận xét một vấn đề trong đời sống xã hội và một vấn đề văn học 
sau này (lớp 9). 
 Để làm bài nghị luận có kết quả tốt Văn nghị luận đòi hỏi các em phải có 
kiến thức sâu rộng, có óc suy luận, phân tích tổng hợp. Ngay buổi ban đầu (lớp 
7) tiếp xúc với kiểu văn bản này, các em đã hiểu được khái niệm phương pháp 
làm bài Nghị luân thông qua nhiều hình thức học tập, đặc biệt là thực hành 
những bài nghị luận đơn giản, lên các lớp trên các em mới có thể tạo lập được 
một văn bản nghị luận đạt hiệu quả. Lớp 8 học sâu hơn khi các em biết xây dựng 
đoạn văn hoàn chỉnh.
 Có thể nói một cách khách quan, kiểu bài nghị luận nói chung và kiểu bài 
nghị luận chứng minh nói riêng là mới và khó đối với học sinh THCS, nhất là 
đối với học sinh lớp 7,8. Bên cạnh đó người giáo viên lại muốn học trò của mình 
làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bởi để có một 
bài văn hay trước hết phải biết xây dựng được đoạn văn, biết kết hợp một cách 
chặt chẽ giữa các đoạn, phải viết đúng, (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là 
trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. 
Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến 
thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách  Muốn thế người viết không 
chỉ phải chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ ràng.
 Qua nghiên cứu, tìm hiểu nắm được tình hình học tập của học sinh về 
phần văn nghị luận chứng minh trong chương trình Ngữ văn 8, tôi đưa một số 
biện pháp cụ thể sau: 
 3 cầu khác phù hợp với kiểu bài nghị luận chứng minh. Vì vậy, việc rèn kỹ năng 
viết đoạn văn mở bài là điều cần thiết và sẽ là điều kiện thuận lợi cho học sinh 
làm các kiểu bài nghị luận sau này (giải thích, phân tích, nghị luận tổng hợp...).
 Yêu cầu:
 Mở bài phải giới thiệu cho người đọc thấy rõ vấn đề sẽ chứng minh trong 
bài. Mở bài nên gọn, tự nhiên, phù hợp với bài viết, gây được tâm thế cho cả 
người viết và người đọc.
 Bài “Cách làm bài văn nghị luận chứng minh” (Sách giáo khoa Ngữ 
văn 7) có hướng dẫn ba cách mở bài sau đây:
 + Đi thẳng vào vấn đề.
 + Suy từ cái chung đến cái riêng.
 + Suy từ tâm lý con người.
 Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các em được làm quen với ba cách 
mở bài trên, nhưng khi cho đề bài khác, các em rất vất vả, khó khăn khi thực 
hiện yêu cầu đầu tiên đó là viết mở bài. Các em không biết bắt đầu như thế nào? 
Viết cái gì? Viết ra sao?...
 Sau khi các em làm quen với những cách mở bài trên, tôi đưa ra các đoạn 
văn mở bài sai để học sinh nhận ra lỗi sai. Từ đó, học sinh có thể hiểu được yêu 
cầu của đoạn văn mở bài và viết đúng.
Bài tập : Có hai đoạn mở bài cho đề chứng minh: 
 “Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào.”
 a) Trong gia đình Việt Nam có những tình cảm ngọt ngào và đằm thắm. 
Thứ tình cảm ngọt ngào, đằm thắm thiêng liêng ấy mà hầu như ai trong mỗi con 
người chúng ta đều có là tình cảm gia đình. Chính vì vậy, ta có thể khẳng định 
rằng: Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào.
 b) Chúng ta được lớn lên trong tình yêu thương của gia đình. Trong lời ru 
của bà, của mẹ. Lòng nhân ái của cha. Những tình cảm đó được dân gian gửi 
gắm vào ca dao.
 Hãy nêu nhận xét của em về những mở bài đó.
Hướng dẫn:
 a. Nêu được vấn đề chứng minh nhưng cách diễn đạt chưa đạt yêu cầu.
 Câu (1), (2) diễn đạt còn vụng, luẩn quẩn, không thoát ý, lặp từ "ngọt 
ngào đằm thắm".
 Câu (1), (2) chưa nói gì đến ca dao, vậy mà câu (3) đã khẳng định: "Ca 
dao là...".
 b. Nêu vấn đề chứng minh song lại cụ thể, chi tiết, chưa có sức khái quát 
vấn đề. Sai ngữ pháp ở câu (2), (3).
 * Giáo viên cho học sinh tham khảo các mở bài sau:
 5 hướng vào nội dung của câu chủ đề (ý cơ bản - luận điểm) và có nhiệm vụ làm 
sáng rõ luận điểm ở câu chủ đề đó.
 + Trong đoạn văn chứng minh cần đảm bảo sự thống nhất giữa ý cơ bản 
của toàn đoạn và dẫn chứng, giữa dẫn chứng và lời văn phân tích.
 Việc sử dụng dẫn chứng không theo nguyên tắc bình quân mà ý nào quan 
trọng thì đưa dẫn chứng nhiều, ý nào không quan trọng thì dùng dẫn chứng ít.
Có nhiều cách đưa dẫn chứng:
 + Dẫn trực tiếp: Dẫn nguyên văn một câu, một đoạn... chính xác như 
nguyên bản (khi sử dụng phải đặt trong dấu ngoặc kép và có chú thích khi cần).
 + Dẫn gián tiếp: Chỉ cần đại ý, đảm bảo đúng ý, không cần chính xác câu 
chữ như nguyên tác (khi phải tóm tắt câu chuyện, tóm tắt nhiều hành động, lời 
phát biểu hoặc một đoạn văn mà mình không thuộc...).
 + Có thể đưa dẫn chứng liệt kê (khi ý đã rõ ràng, hiển nhiên hoặc không 
cần chi tiết hoặc dùng dẫn chứng sau soi sáng cho dẫn chứng trước...).
 + Có thể đưa dẫn chứng kèm theo phân tích thuyết minh.
Bài tập : Hãy nhận xét cách đưa dẫn chứng ở hai đoạn văn sau:
 1. “Tiếng Việt trong cấu tạo của nó là một thứ tiếng khá đẹp. Nét đẹp ấy 
được tác giả Đặng Thai Mai khẳng định: Tiếng Việt là thứ tiếng giàu chất nhạc. 
Điều đó, khiến chúng ta nhớ đến các bài thơ, những áng văn sinh động, đa 
thanh, giàu chất nhạc trong kho tàng văn học Việt Nam. Ta hãy lắng nghe đoạn 
thơ sau:
 "Chú bé loắt choắt
 Cái xắc xinh xinh
 Cái chân thoăn thoắt
 Cái đầu nghênh nghênh
 Ca lô đội lệch
 Mồm huýt sáo vang
 Như con chim chích
 Nhảy trên đường vàng".
 Nhạc tính của Tiếng Việt đã tấu lên ở âm sắc, những thanh điệu, cú pháp 
đẹp đẽ, uyển chuyển, sinh động biết bao trong đoạn thơ ấy.”
  Đưa dẫn chứng trực tiếp.
 2. Trong cổ tích, bao giờ cái thiện cũng thắng cái ác. Cô Tấm sau bao lần 
chết đi sống lại rồi vẫn được làm hoàng hậu. Thạch Sanh qua bao lần oan khổ đã 
được làm vua. Chàng Sọ Dừa cuối cùng đoàn tụ hạnh phúc cùng cô Út dịu 
hiền...
 (Bài làm của học sinh)
  Đưa dẫn chứng gián tiếp.
 7 Đoạn 2: Dẫn chứng được sắp xếp theo thứ tự tăng dần (tình cảm vợ chồng 
thuỷ chung, ấm áp trong lao động cực nhọc - nghèo túng - bần hàn cơ cực). 
* Luyện tập cách diễn đạt, trình bày.
 Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy: nếu không có đoạn phân tích thì 
người đọc không thể hiểu được tại sao người viết lại dùng dẫn chứng này cho 
lập luận ấy. Để viết hay, hấp dẫn, người viết phải biết trình bày linh hoạt giữa 
hai yếu tố: dẫn chứng và phân tích. 
Bài tập : Giáo viên đưa ra tình huống - Học sinh thảo luận
 Có người nói: "Làm văn chứng minh cũng dễ thôi, chỉ cần nêu luận điểm 
và dẫn chứng là xong". Ví dụ sau khi nêu luận điểm "Tiếng Việt ta giàu đẹp", 
chỉ cần dẫn ra câu ca dao :
 Trong đầm gì đẹp bằng sen.
 Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng...
 Theo em, nói như vậy có đúng không? Để làm được văn chứng minh, 
ngoài luận điểm và dẫn chứng, còn cần phải có thể điều gì? Có cần chú ý tới 
chất lượng của luận điểm và dẫn chứng không? Chúng cần phải như thế nào thì 
đạt yêu cầu? 
Hướng dẫn:
 Giáo viên lưu ý cho học sinh thấy là qua câu trả lời, người nói tỏ ra không 
hiểu về cách làm văn lập luận chứng minh. Chứng minh trong văn nghị luận đòi 
hỏi phải phân tích, diễn giải sao cho dẫn chứng "nói lên" điều mình muốn chứng 
minh. Điều cần lưu ý nữa là dẫn chứng phải tiêu biểu. Câu ca dao trên làm theo 
thể lục bát, tiêu biểu cho Tiếng việt đẹp về thanh điệu, vần nhịp nhưng phải diễn 
giải thì điều cần chứng minh ở đó mới có sức thuyết phục.
* Luyện tập liên kết đoạn: Đoạn văn không tồn tại độc lập, riêng biệt mà là 
một bộ phận của bài văn, khi viết đoạn, phải xác định xem đoạn văn ấy nằm ở vị 
trí nào của bài văn, có thế mới tạo được sự liên kết, liền mạch của bài viết.
Bài tập 1: Tìm hiểu cách liên kết đoạn của hai đoạn văn trong văn bản "Tinh 
thần yêu nước của nhân dân ta".
 “Lịch sử ta đã có những cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu 
nước của nhân dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời 
đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải 
ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một 
dân tộc anh hùng. Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày 
trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở 
nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược 
đến miền xuôi, ai cùng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc..."
Hướng dẫn:
 9

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_luyen_ky_nang_xay_dung_doan_van_ng.doc