Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp 1
Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp .Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học .
Cùng với kỹ năng viết , kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập .Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp , sử dụng sách giáo khoa , sách tham khảo từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình . Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói,đọc,viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu , đoạn văn , bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em đạt khá - giỏi.
MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG Phần 1. Mở đầu 1.Mục đích của sáng kiến 2 2.Tính mới và ưu điểm nổi bật của SK 3 3.Đóng góp của SK 3 Phần 2. Nội dung Chương 1: Khái quát thực trạng đọc của học sinh lớp 1 4 Chương 2: Những giải pháp đã được áp dụng. 6 Chương 3: Kiểm chứng các giải pháp. 17 Phần 3. Kết luận 18 Phần 4. Phụ lục Tài liệu tham khảo 20 Kí hiệu viết tắt: +GV: giáo viên +HS: học sinh +Phòng GD&ĐT: Phòng Giáo dục và đào tạo +SKKN: sáng kiến kinh nghiệm +SK: sáng kiến PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Mục đích của SK Như chúng ta đã biết ‘’Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của loài người ‘’ (Lê Nin). ‘’Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng ‘’(Mác). Ngôn ngữ là là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm .Chức năng quan trọng của ngôn ngữ đã quy định sự cần thiết nghiên cứu sâu sắc kỹ năng đọc trong phân môn Tiếng Việt và trong hệ thống giáo dục nhà trường. Có đọc thông thì mới viết thạo . Học sinh lớp một chỉ được công nhận khi các em biết đọc chữ . Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng , môn Tiếng Việt ở tiểu học rèn luyện cho học sinh cả bốn kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết song mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt ở lớp một là đem lại cho các em kỹ năng đọc đúng, viết đúng . Ngoài ra còn làm giàu vốn từ , biết nói đúng các mẫu câu ngắn và tạo cho các em sự ham thích thơ văn .Đây là điều kiện chuẩn bị để các em học tốt hơn môn Tiếng Việt ở các lớp trên . Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp .Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học . Cùng với kỹ năng viết , kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập .Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp , sử dụng sách giáo khoa , sách tham khảotừ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình . Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói,đọc,viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu , đoạn văn , bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em đạt khá - giỏi. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một”. 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến Mặc dù sáng kiến này đã có rất nhiều người nghiên cứu và áp dụng, nhưng điểm mới của sáng kiến tôi đưa ra là: Nêu lên những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh, từ kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nhằm nâng cao dần kĩ năng đọc hiều cho học sinh, từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt. Thông qua kĩ năng đọc giúp học sinh có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học khác, từ đó tạo được động cơ và thái độ tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, ... góp phần hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện. 3. Những đóng góp về mặt khoa học của sáng kiến Sáng kiến đã nghiên cứu được những vấn đề về vai trò của phân môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 1 nói riêng; Khẳng định những cơ sở khoa học của việc dạy và học Tập đọc. Đề xuất những biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc văn bản Tiếng Việt cho học sinh. PHẦN II: NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG ĐỌC CỦA HỌC SINH LỚP 1 1/ Thuận lợi: a. Giáo viên: - Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học v v cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy. - Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. - Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, cónhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm. b. Học sinh: - Ở độ 6 -7 tuổi của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv. - Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên, và cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà. c. Chương trình Tiếng Việt 1 – Hiện hành Đối với sách giáo khoa Tiếng Việt hiện hành ngay từ những bài đầu tiên học sinh đã được ghép những tiếng cơ bản, gần gũi trong cuộc sống hằng ngày, ừ đó tạo cảm hứng thú cho học sinh. Đồng thời, trong quá trình học các các từ khóa và từ mới các em đã được tìm hiểu nghĩa của từ, giúp hình thành khả năng đọc hiểu văn bản sau này. Những bài đọc trong sách giáo khoa Tiếng Việt hiện hành có từ ngữ và nội dung nhẹ nhàng, trong sáng phù hợp với để giáo dục đạo đức cho học sinh, qua đó rèn luyện tính cách, và dạy cho học sinh biết yêu thương gia dình, bạn bè, yêu quê hương đất nước, gần gũi với thiên nhiên. Đối với lứa tuổi lớp 1, các em rất ham tìm tòi, nghiên cứu vì vậy những kiến thức cơ bản đó sẽ giúp các em tự tin hơn khi đọc sách sau này. Trên lớp học sinh nào đuối hơn, về nhà phụ huynh vẫn có thể kèm cặp được thêm cho em mình, giúp các bé nhận biết được hết các mặt chữ. 2/ Khó khăn: Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau: a/ Giáo viên: - Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư. b/ Học sinh: - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. - Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu phát âm sai l / n ; r/d ; ch/tr . .. - Đa số phụ huynh trong lớp là làm nông nghiệp , chưa quan tâm đúng mứcđến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà. c/ Chương trình Tiếng Việt 1 – hiện hành Học sinh mất thời gian dã ghi nhớ cấu tạo và quy tắc việt chính tả của một số âm, vần. Kĩ năng đọc thành tiếng của học sinh còn hạn chế. 3, Cơ sở tâm lí học : - Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ .Từ đây hoạt động chủ đạo của trẻ , hoạt động vui chơi , ở giai đoạn mẫu giáo chuyển sang một loại hoạt động mới , hoạt động học tập với đầy đủ ý nghĩa của từ này .Các em trở thành những ‘’cậu học sinh ‘’, những ‘’cô học sinh ‘’, có một ‘’địa vị ‘’mới trong gia đình và ngoài xã hội .Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu , là những tín hiệu thay thế ngữ âm .Ở độ 6-7 tuổi khả năng phân tích , tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh , từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng , thành âm và chữ . 4, Cơ sở ngôn ngữ học của việc rèn kỹ năng đọc . - Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn vv - Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu , bài mà các em viết. 5, Cơ sở nghiên cứu Tôi thường nghiên cứu các giáo trình Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt 1. Các tài liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa lớp 1, Các Tham Luận dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Một. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 . Các ấn phẩm: để học tốt, dạy tốt môn Tiếng Việt lớp Một. Phần mềm dạy học Tiếng Việt 1 . Sách báo , Các loại sách tham khảo, bổ trợ Tiếng Việt lớp 1 . . . II. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện pháp sau: 1. Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu năm. - Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học sinh Không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu Giáo. - Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo và kết quả điều tra năm thu được như sau: Tình hình học sinh: lớp 1A sĩ số : 35 học sinh Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái: * Học sinh không biết chữ cái nào : 4 em * Biết 6 – 10 chữ cái : 11 em * Nhận biết hết bảng chữ cái : 15 em * Nhận biết âm hai chữ cái : 5 em Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những biện pháp cụ thể sau : 2. Biện pháp * Hình thành các kĩ năng và động lực cho học sinh Đối với những tiết đầu tiên, mọi thứ đều mới mẻ, lạ lẫm với các em. Giáo viên cần xác định mọi thao tác, mọi tư thế, cách đọc, cách nói giao tiếp của học sinh được hình thành ngay trong giai đoạn này. Vì nó bền vững và theo các em trong suốt cuộc đời học tập, công tác. Những tư thế, tác phong, thói quen đẹp sẽ rất có lợi cho lâu dài và ngược lại. Bởi vậy, ngay từ đầu năm học giáo viên cần phải có tác phong chuẩn mực, rõ ràng. Để cho tuần đi học đầu tiên được diễn ra nhẹ nhàng, hấp dẫn, thực sự làm cho học sinh cảm thấy “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, “ Đi học là hạnh phúc”, đòi hỏi giáo viên cần phải đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học. Đặc biệt cần coi trọng kĩ các trò chơi, và tổ chức cho học sinh tham gia các trò chơi học tập một cách chủ động, tích cực. Từ đó các em có hứng thú hơn với môn Tiếng Việt. * Giáo viên làm mẫu, đọc mẫu phải chính xác Ở lứa tuổi Tiểu học, đặc biệt là các em học sinh lớp 1, các em luôn coi thầy cô giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 1 ở giai đoạn này là bắt chước, làm theo. Các em thích giống người lớn, thích giống thầy cô giáo của mình. Vì vậy, khi giáo viên đọc cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sau, viết sai sẽ từng bước được khắc phục. Khi hướng dẫn đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần yêu cầu học sinh cần phải biết được cả kĩ năng nghe, và kĩ năng quan sát khẩu hình miệng của cô. Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. * Rèn tính kiên trì cho học sinh Rèn tính kiên trì cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy. Khi có được lòng kiên trì thì học sinh sẽ vượt qua tất cả những khó khăn để đạt tới đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em dễ chán nản và không muốn luyện tập nữa. Lúc này ngiáo viên cần kiên trì hướng dẫn và làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên khích lệ, động viên các em bằng những lời khen. * Biệp pháp tác động giáo dục - Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học. - Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà. - Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em hưng phấn trong luyện đọc . - Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau. - Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với nột học sinh đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng. - Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh trung bình yếu. Các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 29 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản. *Phần học các nét cơ bản: Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi: Nét sổ thẳng Nét ngang Nhóm 1: Nét xiên \ Nét xiên phải / Nét xiên trái Nhóm 2: Nét móc Nét móc trên Nét móc dưới Nét móc hai đầu Nhóm 3: Nét cong Nét cong hở phải Nét cong hở trái Nét cong kín Nhóm 4: Nét khuyết Nét khuyết trên Nét khuyết dưới Nét thắt * Phần học âm: Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái. Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng. VD: * Âm a gồm 2 nét: Nét cong kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải. a cũng có 2 nét : Nét cong kín bên trái và nét móc ngược bên phải. * Âm g gồm 2 nét : Nét cong kín và nét cong phải. g gồm 2 nét : Nét cong kín và nét khuyết dưới Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cất tạo và tên gọi của 4 âm sau: VD: + Âm d : gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải. Đọc là : “ dờ” + Âm b : gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái Đọc là : “bờ”. Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. VD: + Các âm ghép: ch - c nh - n th - t kh - k gh - g ph - p ngh - ng + Còn lại các âm : gi,tr, qu,ng tôi cho học kỹ về cấu tạo + Phân từng cặp : ch - tr , ng - ngh, c - k, g – gh để học sinh phát âm chính xác và viết chính tả. - Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau) đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của những âm này nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc , ghép , viết , nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm . - Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ.. từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh. *Phần học vần Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng. Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen:nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững. VD: Học vần ay : 1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ay : vần ay gồm 2 âm: âm a và âm y đứng sau Vị trí âm trong vần: âm a đứng trước, âm y đứng sau. 2/ Đánh vần vần ay : - Hướng dẫn học sinh: âm a đứng trước , ta đọc a trước, âm y đứng sau ta đọc y sau : a - y - ay . - Đọc trơn vần: ay Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh sử dụng bộ thực hành ghép chữ dành cho lớp Một để học sinh tìm và ghép âm , thanh , tiếng mới trong mỗi bài Học vần . Ví dụ : Yêu cầu các em: chọn đúng hai âm : a và y Ghép đúng vị trí : a trước y sau Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ay. Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc.Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài. Luôn đưa ra cho học sinh so sánh vần đã học với vần hôm nay học để học sinh so sánh . VD: dạy vần ay cho học sinh so sánh với vần ai , từ đây học sinh tìm ra âm giống nhau âm nào , khác nhau âm nào ? Rồi so sánh cả hai vần trong bài học : ay / ây .Từ đây giúp các em có kỹ năng so sánh đối chiếu và khắc sâu các vần trong phân môn Học vần . VD: dạy vần ay có từ máy bay . Sau khi học sinh nắm vững vần ay, nhìn và đọc được vần ay một cách chắc chắn. Giáo viên đưa ra từ máy bay và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng trước vần ay (âm b) thanh gì ở trên vần ay (thanh ngang) vậy ta có thể ghép và đánh vần : bờ - ay – bay- bay , đọc trơn : bay , ghép từ :máy bay . Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học. e/ Phần tập đọc: - Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu. Học sinh khá - giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh.Giáo viên nên cho học sinh nh
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_1.doc