Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh Lớp 4

Cơ sở lý luận

Như chúng ta đã biết, cấp Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách của học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị những kiến thức kỹ năng đầu tiên về hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy những tình cảm, thói quen và đức tính tốt của con người. Trong các môn học của bậc Tiểu học thì Tiếng Việt là môn học giữ vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Đó là môn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì tiết Tập làm văn lại chiếm một vị trí khá quan trọng vì nó là sự tích hợp 4 kỹ năng của học sinh.

Văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả để mà tả, mà thường tả để giử gắm những suy nghĩ, cảm xúc, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà các em yêu mến, yêu thích. Vì vậy qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm được tình thương yêu của mình với những gì mà mình miêu tả.

 Trong đời sống, các em gặp nhiều người, nhiều cảnh vật, con vật khác nhau, chúng đều có thể trở thành đối tượng miêu tả. Mỗi đối tượng này đều có những nét khác nhau. Vì vậy, khi miêu tả, các em phải nắm những nét riêng khác biệt này để viết được những bài văn vừa mang đặc điểm chung của thể loại văn miêu tả, vừa có được cái riêng của đối tượng được miêu tả. Đối tượng của văn miêu tả lớp là những cây xanh, đồ vật, con vật rất gần gũi và có ở xung quanh các em., Chúng đều là những sự vật rất có ích và gần gũi thân thiết với con người. Mỗi sự vật có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì thế khi miêu tả chúng, các em phải làm nổi bật được những đặc điểm này. Vì vậy, khi miêu tả cần gắn chúng với việc miêu tả cảnh xung quanh như mây trời, chim chóc, Các em cũng đừng quên nói về lợi ích của chúng cũng như tình cảm yêu mến gắn bó của mình đối với từng sự vật đó. Cụ thể:

Trong chương trình lớp 4, văn miêu tả chiếm 30/62 tiết Tập làm văn của cả năm học. Bao gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Như vậy, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm được những bài văn hay, câu văn xúc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân thật, sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở học tốt tất cả các kiểu bài miêu tả (kể cả tả cảnh và tả người ở lớp 5) đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học Lấy học sinh làm trung tâm. Thầy chỉ là người tổ chức hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng cao được hiệu quả và chất lượng giảng dạy.

 Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn nói chung và đặc biệt là văn miêu tả nói riêng. Số học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo thật là hiếm. Hầu hết khi miêu tả các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn thì rườm rà, diễn đạt ý thì lủng củng, mang tính liệt kê Điều này đã làm tôi trăn trở và lo lắng.

 Xuất phát từ cơ sở mang tính lý luận trên nên tôi đã tiến hành nghiên cứu để tìm ra và giúp học sinh lớp 4 rèn kĩ năng viết văn miêu tả được hay hơn.

 

doc 20 trang hoathepmc36 28/02/2022 13432
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
Trang
1
Mục lục
1
2
A. Phần mở đầu
2
3
I. Lý do chọn đề tài
2
4
II. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
2
5
III. Đối tượng nghiên cứu
2
6
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
2
7
V. Phương pháp nghiên cứu
3
8
B.Phần nội dung
3
9
I. Cơ sở lý luận
3
10
II. Thực trạng
4
11
III. Nội dung và hình thức của giải pháp
5
12
1. Mục tiêu giải pháp
5
13
2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp
5
14
3. Phạm vi và kết quả của sáng kiến
17
15
C. Phần kết luận và kiến nghị
18
16
I. Kết luận
18
17
II. Kiến nghị
18
18
D . Tài liệu tham khảo
20
A. Phần mở đầu: 
I. Lý do chọn đề tài.
Trong các môn học ở tiểu học môn Tiếng Việt là môn học có vị trí hết sức quan trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức. Nó còn là môn công cụ giúp học sinh học tốt các môn học khác. Phân môn tập làm văn có tính chất tổng hợp, vừa vận dụng các hiểu biết và kỹ năng về Tiếng Việt từ các phân môn khác vừa phát huy hoàn thiện các kết quả đó.
Để thực hiện vai trò này, tiết tập làm văn là tiết học mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành từ các phân môn khác của môn Tiếng việt. Tập làm văn ở lớp 4 với mục đích rèn kỹ năng phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý bài văn, viết đoạn văn, liên kết đoạn thành bài văn, tự kiểm tra bài, sửa chữa bài văn góp phần phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại của học sinh. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các em rất ngại học phân môn Tập làm văn, nhất là khi làm bài văn viết. Bởi vì kỹ năng viết bài văn của các em còn hạn chế nên chất lượng bài viết chưa cao. Thông thường các em nhìn thấy cái gì các em nghĩ cái đó theo kiểu liệt kê, chứ không biết chắt lọc các chi tiết để quan sát. Mặt khác do vốn từ của các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa chính xác, sử dụng câu què cụt, nhạt nhẽo, không chọn lọc. Cách diễn đạt ý của câu văn mang tính chất văn nói nên khi đọc gây cảm giác rườm rà, lủng củng, lộn xộn, Hầu hết các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy, nên bài văn của các em tuy đủ ý nhưng rất khô khan. Bên cạnh đó còn một số bài viết mắc nhiều lỗi chính tả. Có em viết hết cả bài văn mà không có lấy một dấu chấm, một lần xuống dòng. Có em lại chấm, phảy một cách tùy tiện.
Nói tóm lại, khi viết một bài văn nói chung và văn miêu tả nói riêng, học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Đứng trước một thực trạng như vậy thì bất cứ người giáo viên nào cũng phải băn khoăn lo lắng. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4” để trao đổi kinh nghiệm dạy học với các đồng chí. 
II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Giúp giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung dạng văn miêu tả. Từ đó giúp học sinh lớp 4 rèn kĩ năng viết tốt bài văn miêu tả.
Giúp giáo viên xác định được kĩ năng cần dạy cho học sinh về bài văn miêu tả thông qua việc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng như: Quan sát, lập dàn ý, dùng từ đặt câu, xây dựng đoạn văn, viết bài văn miêu tả.
Giúp giáo viên tự rút ra bài học kinh nghiệm thông qua việc trải nghiệm thực tế trên lớp học của mình để tiếp tục dạy tốt hơn cho những dạng văn khác.
 III. Đối tượng nghiên cứu
Rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai .
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện và năng lực có hạn, đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu và áp dụng Rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng học tập ở các môn học.
Tôi bắt đầu nghiên cứu và thực hiện từ năm học 2016 – 2017 đến nay.
V. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp điều tra khảo sát
- Phương pháp đàm thoại, vấn đáp
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát. 
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tuyên dương, khen thưởng
- Phương pháp đối chiếu và so sánh kết quả sau khi vận dụng các biện pháp trên.
B. Phần nội dung 
 I.Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết, cấp Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách của học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị những kiến thức kỹ năng đầu tiên về hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy những tình cảm, thói quen và đức tính tốt của con người. Trong các môn học của bậc Tiểu học thì Tiếng Việt là môn học giữ vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Đó là môn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì tiết Tập làm văn lại chiếm một vị trí khá quan trọng vì nó là sự tích hợp 4 kỹ năng của học sinh.
Văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả để mà tả, mà thường tả để giử gắm những suy nghĩ, cảm xúc, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà các em yêu mến, yêu thích. Vì vậy qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm được tình thương yêu của mình với những gì mà mình miêu tả.
 Trong đời sống, các em gặp nhiều người, nhiều cảnh vật, con vật khác nhau, chúng đều có thể trở thành đối tượng miêu tả. Mỗi đối tượng này đều có những nét khác nhau. Vì vậy, khi miêu tả, các em phải nắm những nét riêng khác biệt này để viết được những bài văn vừa mang đặc điểm chung của thể loại văn miêu tả, vừa có được cái riêng của đối tượng được miêu tả. Đối tượng của văn miêu tả lớp là những cây xanh, đồ vật, con vật rất gần gũi và có ở xung quanh các em.,Chúng đều là những sự vật rất có ích và gần gũi thân thiết với con người. Mỗi sự vật có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì thế khi miêu tả chúng, các em phải làm nổi bật được những đặc điểm này. Vì vậy, khi miêu tả cần gắn chúng với việc miêu tả cảnh xung quanh như mây trời, chim chóc, Các em cũng đừng quên nói về lợi ích của chúng cũng như tình cảm yêu mến gắn bó của mình đối với từng sự vật đó. Cụ thể:
Trong chương trình lớp 4, văn miêu tả chiếm 30/62 tiết Tập làm văn của cả năm học. Bao gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Như vậy, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm được những bài văn hay, câu văn xúc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân thật, sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở học tốt tất cả các kiểu bài miêu tả (kể cả tả cảnh và tả người ở lớp 5) đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học Lấy học sinh làm trung tâm. Thầy chỉ là người tổ chức hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng cao được hiệu quả và chất lượng giảng dạy.
 Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh còn lúng túng, vụng về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn nói chung và đặc biệt là văn miêu tả nói riêng. Số học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo thật là hiếm. Hầu hết khi miêu tả các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn thì rườm rà, diễn đạt ý thì lủng củng, mang tính liệt kê  Điều này đã làm tôi trăn trở và lo lắng.
  Xuất phát từ cơ sở mang tính lý luận trên nên tôi đã tiến hành nghiên cứu để tìm ra và giúp học sinh lớp 4 rèn kĩ năng viết văn miêu tả được hay hơn.
II.Thực trạng	
 Năm học 2017-2018, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4A. Lớp tôi gồm có 29 học sinh, trong đó có 12 em là học sinh nữ, học dân tộc ít người là 2 em, có 5 em hộ nghèo, 2 em khuyết mẹ. Một số em cha mẹ đi làm ăn xa, các em phải sống với ông bà, điều kiện học tập ở nhà không tốt vì thế đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập các em.
1.Thuận lợi:
Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn có hiệu quả, nâng cao tay nghề cho giáo viên.
Tổ chuyên môn đã tổ chức chuyên đề dạy tiết Tập làm văn ở lớp 4. Giáo viên được trang bị đầy đủ tài liệu giảng dạy cũng như tài liêu tham khảo, các phương tiện dạy học như máy chiếu để dạy bằng điện tử.
Đội ngũ giáo viên có năng lực, yêu nghề đã áp dụng được phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh linh hoạt và hiệu quả. Từ lớp 2,3 các em được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.
 Đối tượng miêu tả khá gần gũi (cây bàng, con gà) với học sinh nông thôn. Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc và sức sáng tạo.. Những đồ vật, con vật, cây cối là những người bạn thân thiết, gần gũi mà các em có thể tâm tư, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lí này thuận lợi để khơi gợi ở các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú vị
  2. Khó khăn: 
  Như chúng ta đã biết, sản phẩm của Tập làm văn là cả ngôn bản ở dạng nói, dạng viết theo các dạng lời nói kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của học văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hóa, văn minh của một người. Nhưng ở lớp 4 các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành bài văn hoàn chỉnh. Hơn nữa khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế nhất là các em học sinh ở vùng nông thôn trong địa bàn chúng tôi. Mỗi bài văn miêu tả hay đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách máy móc các bài văn mẫu.
III. Nội dung và hình thức của giải pháp:
1.Mục tiêu của giải pháp
-  Nhằm giúp học sinh lớp 4A viết được một bài văn miêu tả đúng với yêu cầu của đề bài, đầy đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài), câu văn rõ ràng, chân thật, giàu hình ảnh, biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa phù hợp, thể hiện được tình cảm của người viết.
2.Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp
Để khắc phục thực trạng trên và tổ chức tiết dạy học Tập làm văn miêu tả có hiệu quả hơn và phù hợp với đối tượng học sinh đang dạy. Tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau:
2.1.Giải pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài.
Đây là một việc làm rất quan trọng, bởi nó giúp học sinh định hướng được công việc mình sẽ làm: Đó là xác định được bài văn thuộc thể loại gì? Kiểu bài gì? Đối tượng miêu tả là gì? Từ đó giúp các em không đi lạc yêu cầu của đề. Sau khi nêu xong đề bài, tôi ghi lên bảng rồi yêu cầu 2 học sinh đọc lại.
Ví dụ 1: Đề bài “Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em” 
- Giáo viên cần giúp học sinh xác định đúng thể loại văn bằng cách đưa ra các gợi ý để học sinh lựa chọn ...).
- Sau khi học sinh xác định được thể loại văn (tả đồ vật), giáo viên giúp học sinh xác định yêu cầu của đề bài: Tả cái gì ? (Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em). 
 Việc làm này giúp học sinh nhận ra rằng: đồ vật các em cần tả là một cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em chứ không phải là tả những cái bàn học khác. Đây là bước rèn cho học sinh kĩ năng phân tích đề bài. 
 Ví dụ 2: Em hãy tả một cây cho bóng mát ở sân trường em hoặc nơi em đang ở.Tôi hướng dẫn các em như sau:
 - Đề bài thuộc thể loại văn gì? (miêu tả)
 - Kiểu bài nào? (tả cây cối)
 - Đối tượng miêu tả là gì? (cây cho bóng mát)
 - Kể tên các loại cây che bóng mát? (bàng, xà cừ, phượng vĩ,)
 Sau khi học sinh trả lời xong, tôi chốt lại yêu cầu và dùng phấn màu gạch chân các từ ngữ quan trọng. Nếu giáo viên làm như vậy thì sẽ không học sinh nào làm lạc đề.
 2.2.Giải pháp 2: Rèn kỹ năng quan sát.
 Đây là giải pháp được coi là cơ bản nhất. Bởi kết quả của quan sát được thể hiện rõ trong từng bài làm của học sinh. Em nào quan sát tỉ mỉ thì em đó sẽ nhận ra được những nét riêng biệt, đặc sắc của sự vật mình định tả để thể hiện trong bài viết. Còn em nào quan sát hời hợt, phiến diện thì bài viết của các em sẽ khô khan, nông cạn.
Để giúp các em tìm ra được những nét riêng biệt, tiêu biểu cho từng mỗi sự vật tôi sử dụng các thao tác rèn kỹ năng như sau:
*Tả cây cối: 
+ Quan sát tỉ mỉ các bộ phận của cây theo 1 trình tự hợp lý:  Các em có thể quan sát theo các trình tự sau:
- Quan sát theo trình tự từng thời kỳ phát triển của cây.
- Quan sát theo trình tự từng bộ phận của cây
- Quan sát theo trình tự từng thời kỳ phát triển của một bộ phận trên cây (chẳng hạn: hoa, quả)
 Song dù quan sát theo trình tự nào thì các em cũng phải dừng lại ở bộ phận chủ yếu, trọng tâm để quan sát kỹ hơn.
Ví dụ: Quan sát cây bàng. Tôi hướng dẫn các em quan sát theo trình tự:
 - Quan sát từ xa: Hình dáng của cây khi nhìn từ xa.
 - Quan sát khi đến gần: Gốc, rễ, thân, cành, lá,...; Cảnh vật xung quanh tác động đến cây (nắng, gió, khí hậu, chim chóc, ong bướm, con người)
Đó chính là quan sát bao quát rồi quan sát từng bộ phận của cây bàng.
+ Quan sát cây cối bằng nhiều giác quan:
Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định nhiều mặt. Thông
thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát. Do đó, kết quả thu được thường chỉ là các nhận xét và cảm xúc gắn liền với thị giác. Song tôi đã hướng dẫn các em biết cách phối hợp các giác quan để quan sát.
Ví dụ: Quan sát cây bàng: Tôi hướng dẫn như sau:
 Các em dùng mắt để quan sát từ xa xem hình dáng của nó như thế nào? trông nó giống cái gì?(cái ô khổng lồ, lâu đài nấm)
 Em hãy dùng tay để sờ xem vỏ cây của cây bàng như thế nào (sần sùi, hơi nham nháp)
 Em hãy dùng mắt để quan sát trên cây có những loài vật nào? Và lắng nghe xem chúng đang làm gỉ? 
Với mỗi bộ phận của cây tôi đều có một vài câu hỏi gợi ý và giúp các em sử dụng từ ngữ để ghi lại những gì quan sát được. Nếu giáo viên làm tốt thao tác này là đã góp phần vào sự thành công của việc rèn kỹ năng quan sát cho học sinh.
+ Quan sát để phát hiện, tìm ra những điểm riêng của cây:
Để giúp người đọc phân biệt được loài cây này với loài cây khác và nhất là với hai cây cùng một loài, tôi đã định hướng cho các em tránh lối liệt kê tất cả các bộ phận như một người thợ lắp ráp một đồ vật nào đó, mà cần phải nhằm vào những chi tiết, bộ phận có thể khắc họa hình ảnh cây ấy một cách rõ rệt, gợi cho em nhiều ấn tượng nhất, tập trung miêu tả những nét độc đáo và làm hiện lên những nét riêng của loài cây đó khiến nó không lẫn với các loài cây khác. Giữa các cây cùng một loài nó cũng có dáng vẻ riêng của nó.
Ví dụ: Quan sát cây bàng từ xa đến gần; gốc, rễ, thân, tán lá, sự thay đổi màu sắc của lá theo mùa, cảnh vật xung quanh để tìm ra các nét riêng của cây.
 	2.3.Giải pháp 3: Rèn kỹ năng lập dàn bài chi tiết cho bài văn miêu tả.
	Để viết được một bài văn hay, thì học sinh cần phải có thói quen lập dàn bài chi tiết. Vì vậy sau khi hướng dẫn học sinh kỹ năng quan sát, tôi giúp các em có thói quen chọn lọc các chi tiết quan sát được và sắp xếp chúng thành một dàn bài chi tiết. Để giúp các em thực hiện tốt kỹ năng này, tôi hướng dẫn theo hai bước sau:
a. Kỹ năng chọn lọc chi tiết:
Kết quả các em quan sát được bao gồm cả phần thô lẫn phần tinh. Vậy làm thế nào để giúp các em sàng lọc bỏ phần thô, chỉ giữ lại phần tinh. Để giúp các em làm công việc đó, tôi yêu cầu các em xác định rõ yêu cầu của đề bài và đặc điểm đối tượng miêu tả để lược bỏ chi tiết không cần thiết.
Ví dụ 1: Quan sát cây bàng ở sân trường.
Tôi giúp học sinh tập trung vào quan sát hình dáng (thân, gốc, rễ) và đặc biệt chú trọng đến tán lá và sự thay đổi màu sắc của lá bàng qua các mùa trong năm.
Ví dụ 2: Quan sát con mèo đang sưởi nắng
Giúp học sinh quan sát hình dáng của con mèo khi sưởi nắng sẽ có điểm khác biệt với con mèo khi rình chuột và cũng sẽ khác với con mèo lúc treo cây
 b. Kỹ năng sắp xếp ý:
Sau khi chọn lọc được các chi tiết, nếu các em không biết các sắp xếp ý thì bài văn của các em sẽ lủng củng, lộn xộn. Để giúp các em làm tốt kỹ năng này 
tôi luôn lưu ý học sinh: một bài văn cho dù dài hay ngắn thì luôn đủ ba phần
- Mở bài: Giới thiệu cây sẽ tả. (bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp)
- Thân bài: Miêu tả cây:
+ Tả bao quát (hình dáng của cây).
+ Tả từng bộ phận của cây hoặc tả từng thời kì phát triển của cây.
     	- Kết bài: Nêu ích lợi của cây (cho bóng mát hay cho ta quả, bảo vệ bầu không khí trong lành.) hoặc nêu cảm nghĩ về cây (theo cách mở rộng hoặc không mở rộng.)
Cho dù làm bài tại lớp hay về nhà, tôi luôn nhắc nhở các em phải lập dàn ý chi tiết.
Ví dụ 1: Lập dàn ý tả cây bàng:
* Mở bài: Cây bàng được trồng ở sân trường em; trồng từ lúc nào em không biết vì khi em tới trường đã thấy nó.
* Thân bài:
- Tả bao quát:
+ Nhìn từ xa trông như một cây dù lớn màu xanh với dáng đứng thẳng, ngọn cao vượt lên, tán lá xòe rộng.
+ Đến gần thấy thân to, tán là xanh ngắt chia thành nhiều tầng rợp mát cả một góc sân trường.
- Tả từng bộ phận:
+ Gốc to, mấy rễ lớn nhô lên khỏi mặt đất.
+ Thân cao trên 6m, to gần một vòng tay, vỏ màu xám, nhiều vết trầy xước.
+ Nhiều cành lớn, chìa ngang hoặc chênh chếch.
+ Mùa thu lá đỏ rồi rụng, mùa đông trơ trụi, mùa xuân đâm chồi, nảy lộc, bắt đầu sang hè lá to, xanh ngắt, chìa thành nhiều tầng tán ken kít, ánh nắng khó lọt qua nổi..
+ Nắng chói chang, gió nhẹ, chim choc ẩn mình trong tán lá hót líu lo
+ Chúng em thường vui đùa dưới gốc cây bàng.
 * Kết bài:
- Bàng che mát cho chúng em vui chơi,
- Cây bàng gắn bó với nhiều kỉ niệm tuổi thơ
Ví dụ 2: Lập dàn ý tả con vật
*Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả.
- Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì? (Tên con vật, nơi nó ở, lí do em thích nó,) 
*Thân bài:
- Tả hình dáng.
+Mỗi con vật thường đều có những bộ phận nào? (đầu: Mắt, mũi, miệng (mõm, mỏ), tai, ; mình: thân, lưng, bụng, ngực,; chi: móng vuốt, cựa,; đuôi, cánh, .), ...
- Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
- Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn, ) 
- Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ? (con mèo: bắt chuột; con chó: giữ nhà, mừng chủ; )
*Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật.
- Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu vắng khi đi đâu về mà không trông thấy nó, ); Em làm gì để thể hiện tình cảm của em đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ, )
Với cách làm như vậy tôi đã xác định cho các em một thói quen tốt. Các em đã viết được rất nhiều dàn ý hay và tiêu biểu như dàn bài tả con mèo sau đây:
2.4. Giải pháp 4: Xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và viết bài văn miêu tả.
Đây là bước cuối cùng để hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn. Từ các ý đã lập, các em sử dụng ngôn ngữ, phát triển ý để dựng thành đoạn và bài. Tôi hướng dẫn
các em viết bài văn thành nhiều đoạn, như vậy mỗi đoạn văn miêu tả có một nét nhất định.
Ví dụ: Khi tả cây bàng:
Đoạn 1: Giới thiệu cây bàng.
Đoạn 2: Tả bao quát cây bàng (nhìn từ xa, khi đến gần)
Đoạn 3: Tả từng bộ phận (gốc, rễ, thân, cành, lá, cảnh vật xung quanh)
Đoạn 4: Tình cảm của em đối với cây bàng.
 Ở bước này, tôi lưu ý các em: Viết đoạn văn phải đảm bảo sự liên kết
giữa các câu trong đoạn để cùng tả một bộ phận. Các ý trong đoạn được diễn tả
theo một trình tự nhất định nhằm minh họa, cụ thể hóa ý chính.Về mặt hình thức trình bày, khi viết hết mỗi đoạn văn các em cần chấm xuống dòng. Các đoạn văn trong một bài cũng phải có một sự liên kết, được bố cục chặt chẽ theo ba p

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_bai_van_mieu_ta_cho_h.doc