Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức giờ học phụ đạo Vật lí 11 tạo hứng thú học tập cho học viên trung tâm Giáo dục thường xuyên Mường Khương

Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức giờ học phụ đạo Vật lí 11 tạo hứng thú học tập cho học viên trung tâm Giáo dục thường xuyên Mường Khương

Cơ sở lý luận của vấn đề

Giờ học phụ đạo là giờ học tổ chức sau giờ dạy chính khóa nhằm củng cố kiến thức rỗng hoặc kiến thức mà học viên yếu kém, trung bình chưa nắm được, hoặc chưa vận cụng được hoặc vận dụng chưa tốt.

Kiến thức cần dạy trong giờ phụ đạo vật lý 11 là các phần kiến thức thực tế, xác định các đại lượng liên quan đến phần điện học , điện từ học , quang học đặc biệt là phần đổi đơn vị, biến đổi toán học để tìm các đại lượng chưa biết do học viên đã quên kiến thức liên quan của bộ môn ở các lớp dưới.

Giáo viên cần biết lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, tích cực để tạo hứng thú học tập cho học viên. Để đạt được kết quả đó bản thân giáo viên cần nắm được khái niệm và tầm quan trọng của các phương pháp dạy học nói chung và vấn đề hứng thú trong hoạt động học, tiếp thu kiến thức đặc biệt là với môn Vật lý.

Phương pháp dạy học (PPDH) là một hệ thống những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thưch hành của học sinh,đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn. Trong quá trình dạy học, người giáo viên thường tập trung sự cố gắng của mình vào việc biên soạn nội dung và PPDH.

Hiện nay đổi mới giáo dục đổi mới về phương pháp dạy học các phương pháp dạy học hiện nay là phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.

Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của người học đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân.

 

doc 16 trang cuonglanz2a 6902
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức giờ học phụ đạo Vật lí 11 tạo hứng thú học tập cho học viên trung tâm Giáo dục thường xuyên Mường Khương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Phần I: Đặt vấn đề.
3
Phần II: Giải quyết vấn đề
3
1.Cơ sở lý luận của vấn đề	 
4
2.Thực trạng của vấn đề	 
6
3.Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 	 
7
 3.1. Nhóm biện pháp giúp học viên nhớ kiến thức
7
 3.1.1. Gắn đơn vị , tên các đại lượng vật lí với chữ cái đầu của tên học viên 
7
 3.1.2. Nhớ công thức vật lý qua thơ	 
7
 3.2. Nhóm biện pháp giúp học viên có hứng thú học. 	 
8
 3.2.1. Chia nhóm học viên, mỗi nhóm là 1 đoàn tàu 
8
 3.2.2. Cho học viên chơi trò chơi môn học:	 
9
 3.2.3. Kể chuyện về các nhà Vật lý 	 
9
 3.2.4. Gắn vật lý với các hiện tượng thực tế trong cuộc sống	 
12
4.Hiệu quả của SKKN 
14
Phần III: Kết luận	
14
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1. Trung tâm giáo dục thường xuyên
TT GDTX
2.Phương pháp dạy học
PPDH
3.Giáo viên
GV
4. Học viên
HV
5.Trung tâm học tập cộng đồng
TT HTCĐ
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các Trung tâm giáo dục thường xuyên (GDTX) nói chung và Trung tâm GDTX Mường Khương nói riêng với mục tiêu giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học tập, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
	Hiện nay học viên trong các Trung tâm GDTX bao gồm nhiều lứa tuổi, đối tượng khác nhau trong đó có học viên đúng độ tuổi, tuy nhiên do nhiều đặc điểm về tâm sinh lý, điều kiện của người lớn đi học, họ là những người lao động, những người đã trưởng thành và có chức năng, vị trí xã hội nhất định, xét về quá trình học tập thì đa phần họ là những người được học nhưng chưa đầy đủ, còn bị thiệt thòi do nhiều lý do, nay cần phải học tập để nâng cao hiểu biết những kiến thức chuyên môn và những kỹ năng mới. Đối với những học viên đúng độ tuổi đã rỗng kiến thức, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, trình độ nhận thức ở mức trung bình, yếu. 
Do vậy trong quá trình giáo dục đối với học viên TTGDTX đòi hỏi không chỉ phải tuân theo các nguyên tắc dạy học đối với người lớn mà còn cần có nhiều phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng, từng cấp học, lớp học. 
Bộ môn Vật lý là môn khoa học không chỉ đơn thuần kiến thức mà còn kết hợp của nhiều kiến thức toán học như khả năng tính toán, các công thức biến đổi, cách đổi đơn vị , đây được coi là môn học khó đặc biệt đối với các học viên tại trung tâm GDTX nói chung và TT GDTX Mường Khương nói riêng. Vì vậy để góp phần nâng cao kết quả dạy và học môn Vật lý giáo viên không chỉ lựa chọn kiến thức cơ bản nhất phù hợp với đối tượng theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ giáo dục và đào tạo mà điều quan trọng không kém đó là chọn được cách truyền đạt giúp các học viên có thể tiếp thu và vận dụng kiến thức đơn giản hơn mà bớt cảm giác khó đối với bộ môn trước khi học.
Đầu năm giáo viên bộ môn tiến hành khảo sát đầu năm và quan sát tỷ lệ học viên có hứng thú (tích cực) tham gia tìm hiểu vận dụng kiến thức tại lớp, thu được kết quả
Sau kết quả khảo sát đầu năm học, nắm bắt được tỷ lệ học viên yếu kém trung tâm GDTX Mường Khương đã chỉ đạo giáo viên các bộ môn xây dựng kế hoạch phụ đạo yếu kém cụ thể và tổ chức giảng dạy. Trong các giờ phụ đạo môn Vật lý 11 để các học viên vận dụng kiến thức hiệu quả hơn, được củng cố nhiều hơn giáo viên cần giúp các học viên hứng thú, tự giác tìm hiểu kiến thức trong giờ học làm nền tảng cho học viên thi tốt nghiệp sau này. Muốn vậy phải tìm hiểu, vận dụng các phương pháp phù hợp để tạo được hứng thú học tập ngay từ đầu giờ học cho các học viên. Đó là lí do tôi lựa chọn đề tài “Phương pháp tổ chức giờ học phụ đạo Vật lí 11 tạo hứng thú học tập cho học viên trung tâm GDTX Mường Khương”
Phần II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề 
Giờ học phụ đạo là giờ học tổ chức sau giờ dạy chính khóa nhằm củng cố kiến thức rỗng hoặc kiến thức mà học viên yếu kém, trung bình chưa nắm được, hoặc chưa vận cụng được hoặc vận dụng chưa tốt.
Kiến thức cần dạy trong giờ phụ đạo vật lý 11 là các phần kiến thức thực tế, xác định các đại lượng liên quan đến phần điện học , điện từ học , quang học đặc biệt là phần đổi đơn vị, biến đổi toán học để tìm các đại lượng chưa biết do học viên đã quên kiến thức liên quan của bộ môn ở các lớp dưới.
Giáo viên cần biết lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, tích cực để tạo hứng thú học tập cho học viên. Để đạt được kết quả đó bản thân giáo viên cần nắm được khái niệm và tầm quan trọng của các phương pháp dạy học nói chung và vấn đề hứng thú trong hoạt động học, tiếp thu kiến thức đặc biệt là với môn Vật lý.
Phương pháp dạy học (PPDH) là một hệ thống những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thưch hành của học sinh,đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn. Trong quá trình dạy học, người giáo viên thường tập trung sự cố gắng của mình vào việc biên soạn nội dung và PPDH.
Hiện nay đổi mới giáo dục đổi mới về phương pháp dạy học các phương pháp dạy học hiện nay là phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. 
Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của người học đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân.
	Tầm quan trọng của hứng thú đối với các hoạt động sống và hoạt động học thể hiện rất rõ trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào hành động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
	Trong giờ học phụ đạo yếu kém học viên tập trung vào vận dụng, ghi nhớ kiến thức nếu tạo được hứng thú ngay từ đầu tiết học sẽ tạo không khí thoải mái, đơn giản và thúc đẩy học viên tự giác thực hiện các hoạt động tìm hiểu kiến thức đem lại kết quả mong muốn.
Đối tượng người học của GDTX là đa dạng, đủ mọi lứa tuổi, thành phần từ các em nhỏ, thanh thiếu niên đến người lao động. Đối tượng đó có sự khác nhau về tuổi đời, nghề nghiệp, điều kiện sống, điều kiện lao động và cả khả năng học tập. Số người lớn theo học các hình thức, nội dung của GDTX ngày càng đông đảo. Vấn đề đặt ra là cán bộ quản lý, giáo viên của các nhà trường trong GDTX phải có hiểu biết sâu sắc về phương pháp dạy học người lớn. Có như thế mới làm tốt được công việc của mình. Trong thời gian vừa qua việc đổi mới phương pháp dạy học đã được đẩy mạnh ở tất cả các ngành học, cấp học và bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc đổi mới phương pháp dạy học còn chậm, nhất là trong GDTX. Phương pháp dạy học người lớn ở các TT HTCĐ còn ít được đổi mới. Giáo viên chủ yếu thuyết trình, dạy chay, độc thoại, phương pháp dạy học còn chưa phù hợp với người lớn. Nếu mục đích của học là chiếm lĩnh khái niệm, thì mục đích của dạy lại là điều khiển tối ưu quá trình chiếm lĩnh. Mỗi người giáo viên cần nắm vững được mục đích trên mới thực hiện đầy đủ vai trò của người dạy học.
 Trước hết chúng ta hãy bàn đến những đặc điểm tâm sinh lý, điều kiện của người lớn đi học, họ là những người lao động, những người đã trưởng thành và có chức năng, vị trí xã hội nhất định, xét về quá trình học tập thì đa phần họ là những người được học nhưng chưa đầy đủ, còn bị thiệt thòi do nhiều lý do, nay cần phải học tập để nâng cao hiểu biết những kiến thức chuyên môn và những kỹ năng mới. Đặc điểm lớn nhất của người lớn đi học là những người trưởng thành về mặt xã hội, có gia đình. Họ có những quan niệm, cách làm, nếp sống được hình thành tương đối vững chắc, là những người có đủ tư cách giải quyết những việc thuộc chức năng của mình, có tư duy, có nhận thức, có nhân cách, họ có thể xác định thái độ đúng trong học tập, có ý chí nỗ lực học tập và khả năng tập trung lâu bền. Song người lớn đi học cũng có những hạn chế về khả năng nhận thức. Người lớn đi học không có nhiều thời gian dành cho việc học tập. 
Trên đây là những yếu tố tác động đến quá trình đi học của người lớn. Trong quá trình giảng dạy cho đối tượng người lớn chúng ta cần nắm chắc nguyên tắc dạy học sau đây: Giáo viên cần tập trung vào các vấn đề thiết thực, chú ý nhấn mạnh nội dung đang học có thể vận dụng vào đâu, để làm gì; Luôn liên hệ bài giảng và các tài liệu sẵn có với các kinh nghiệm sẵn có của người học; Chú trọng liên hệ việc học, dạy với mục tiêu của giáo dục thường xuyên; Động viên những suy nghĩ, thắc mắc và tìm ra sự thách thức của nội dung, hình thức và các quan điểm; Giáo viên cần lắng nghe, tôn trọng các quan điểm của người học để cùng họ bàn luận, tìm cách khắc phục những chỗ khó trong quá trình dạy và học; Cần khuyến khích các học viên trao đổi với nhau trong tổ, nhóm, lớp và tự nghiên cứu tìm tòi các tài liệu; Các thầy giáo, cô giáo cần đối xử bình đẳng, trân trọng đối với các học viên vì bản thân họ là những người giàu kinh nghiệm sống.
	Phương pháp dạy học người lớn đã được thể hiện ở khoản 4, điều 45 Luật giáo dục năm 2005 nêu rõ: “Phương pháp giáo dục thường xuyên phải phát huy vai trò chủ động, khai thác kinh nghiệm của người học, coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, sử dụng phương tiện hiện đại và công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học”. Gần đây, tại Nghị quyết Đại hội Đảng X (2006) một lần nữa khẳng định chủ trương “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều”. Các phương pháp dạy học người lớn cần được chú ý, đó là phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp động não kích thích mọi người nói được ý nghĩ trước một nội dung; phương pháp tình huống, nghiên cứu điển hình; phương pháp tranh luận; phương pháp dùng phiếu thăm dò.
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Thuận lợi:
	Đa số các học viên tham gia đầy đủ các giờ học phụ đạo môn Vật lý, một số ít HV đã hỏi giáo viên khi chưa hiểu vấn đế kiến thức.
	Đa số HV thật thà dám thể hiện rõ vấn đề mình chưa nắm được.
	HV đã nhiều tuổi hoặc trên độ tuổi phổ thông nên ý thức tự giác tương đối tốt.
2.2. Khó khăn:
Học viên học yếu môn Vật lý tập trung ở một số vấn đề: Đổi đơn vị chưa chính xác; Nhiều học viên không biến đổi toán học được đề suy ra biểu thức tìm các đại lượng còn thiếu; Học viên không nắm được hiện tượng nên không giải thích được kiến thức liên quan
Một số HV đi học theo nguyện vọng của gia đình nên động lực để cố gắng trong học tập còn chưa cao.
Nhiều gia đình học viên chưa thực sự quan tâm đến việc học của HV, chưa thường xuyên động viên nhắc nhở HV nên thời gian, hiệu quả học không nhiều.
2.3. Nguyên nhân: 
Do các học viên đã quên kiến thức đổi đơn vị, công thức biến đổi toán học từ các lớp dưới, một phân là do đầu vào của các em thấp. Ngoài ra do sự tự ti từ đầu là kiến thức khó, biến đổi dài dòng, môn học khó. Một số học viên chưa tích cực trong việc học hỏi bạn bè thầy cô, còn giấu dốt nên càng ngày kiến thức bị hổng càng nhiều.
Đa số các học viên là lao động chính trong gia đình phải gánh vác việc gia đình, hoặc tham gia công tác xã ( học viên cán bộ nhiều tuổi) nên không có thời gian giành cho việc học và ôn tập, hoặc có thời gian nhưng không đủ do nhiều tuổi, nghỉ học lâu nên khả năng nhận thức chậm. 
Nhiều HV có hoàn cảnh gia đình thuận lợi nên chưa thực sự cố gắng.
Cũng có học viên cho rằng giờ phụ đạo là cho học viên học dốt nên không tích cực trong giờ.
Khi bản thân HV có mặt bằng kiến thức đầu vào thấp, hổng kiến thức từ lớp dưới sẽ gặp khó khăn khi tiếp thu kiến thức cấp học mới, đặc biệt không được sự quan tâm khích lệ từ phía phụ huynh, không hiểu được tầm quan trọng của việc học thì sẽ không có được thái độ tích cực cũng như hứng thú trong tiết học nói chung cũng như tiết học Vật lý nói riêng.
Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là phối kết hợp cùng các môn học khác, các đoàn thể trong trung tâm, phụ huynh học viên mà mỗi môn đặc biệt là môn Vật lý cần phải tìm được các phương pháp phù hợp hiệu quả để lôi cuốn được HV trong giờ học góp phần nâng cao kết quả dạy học nói chung.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
	Để học viên có hứng thú trong giờ học, giáo viên cần tìm một số cách để học viên cảm thấy kiến thức đơn giản, dễ nhớ hơn. Vì vậy trước tiên cần phải hướng dẫn học viên một số biện pháp giúp học viên nhớ kiến thức dễ hơn.
3.1. Nhóm biện pháp giúp học viên nhớ kiến thức.
* Nội dung các biện pháp:
3.1.1. Gắn đơn vị , tên các đại lượng vật lí với chữ cái đầu của tên học viên
	Giáo viên quy định cho học viên nhớ tên, ký hiệu đại lượng, đơn vị của đại lượng vật lý theo tên chữ cái đầu của tên học viên.
	Các học viên trong lớp ghi nhớ chéo nhau
Học viên Ao - Đơn vị cường độ dòng điện A ( Am pe)
Học viên Tủa, Tẩn, Thênh, Thương - Đơn vị cảm ứng từ T ( Tesla )
Học viên Chẩn, Cháng, Chử - Đơn vị điện tích C ( Cu lông)
Học viên Ngân, Nga - Đơn vị lực N ( Niutơn)
Học viên Hoa, Hường – Đơn vị độ tự cảm của cuộn dây H ( Hen ri)
3.1.2. Nhớ công thức vật lý qua thơ:
- Cung cấp cho học viên một số câu thơ gắn với công thức vật lý, hoặc cho học viên tự tìm thêm từ để nhớ theo ý hiểu của bản thân. 
Ví dụ một số công thức trong chương trình vật lý 11 có thể gắn vào các công thức sau:
Công thức tính điện tích: q = I.t: Quậy ít thôi
Định luật khúc xạ ánh sáng:
 	n1.Sin i = n2.sin r : Anh 1 sợ ai, anh 2 sợ rắn
Công thức tính từ thông: : Phi sang nhật bản cùng nhỏ bạn
Công thức tính điện năng tiêu thụ của đoạn mạch: A = U.I.t: Anh uống ít thôi 
* Tác dụng, hiệu quả của nhóm biện pháp: 
- Việc nhớ các câu thơ gắn với các công thức vật lý , nhớ đơn vị hoặc tên các đại lượng vật lý theo chữ cái tên của HV là cách HV thường xuyên sử dụng đến và qua đó giúp học viên nhớ kiến thức nhanh và dễ dàng hơn mà không phải nhớ một cách máy móc.
	- Cách nhớ kiến thức này còn giúp HV giảm bớt cảm giác khó, công thức phức tạp khi học môn học
	- Đa số HV đều tích cực, thoải mái khi sử dụng các câu thơ và gọi tên HV, đơn vị chéo nhau trong lớp.
3.2. Nhóm biện pháp giúp học viên có hứng thú học.
3.2.1. Chia nhóm học viên, mỗi nhóm là 1 đoàn tàu
* Nội dung biện pháp:
	Phân công trưởng nhóm, thư ký nhóm là trưởng tàu và phó tàu. Các thành viên còn lại của nhóm là các toa tàu. Trưởng tàu là những học viên có ý thức tự giác trong học tập, có khả năng nhận thức kiến thức bộ môn trung bình khá hoặc khá trở lên
	Trong giờ phụ đạo hướng dẫn các học viên là trưởng tàu phân công nhiệm vụ cụ thể về kiến thức phải vận dụng cho từng thành viên trong nhóm.
	Giáo viên theo dõi hoạt động của từng nhóm và trưởng nhóm trong học kỳ, năm học. Thay đổi trưởng nhóm giữa các nhóm cho nhau.
Lớp 11A: 4 đoàn tàu: 
Đoàn tàu 1: Chấu Seo Sèng ( trưởng tàu);Vàng Seo Páo; Cò Thị Cháng; Sùng Khái Sinh; Trần Thị Nhật Lệ; 
	Đoàn tàu 2: Vàng Xuân Ao ( trưởng tàu) ;Cư Chẩn; Sùng Seo Tủa; Vàng Tỉn Chử; 
Đoàn tàu 3: Hồ Chẩn Tuấn ( trưởng tàu); Sùng Mang; Lù Thị Mây; Vàng Diu Thương; 
Đoàn tàu 4: Vùi Thị Lan ( trưởng tàu); Phu Văn Sứn; Tráng Văn Tẩn; Nguyễn Hữu Thắng; Thào Seo Pao; Vàng Seo Thênh.
Lớp 11B: chia làm 3 đoàn tàu:
	Đoàn tàu 1: Tráng Củi Thanh ( trưởng tàu);Sùng Seo Chẩn; Vàng Khái Diu; Tẩn Thị Lan; Lù Văn Trường
	Đoàn tàu 2: Hoàng Tỏa( trưởng tàu); Lục Thị Hường; Thào Chỉ Hoa; Lèng Văn Lợi; Thào Thị Mú; Thền Nề Tủ
	Đoàn tàu 3: Nùng Thiên Nga (trưởng tàu);Lưu Văn Dũng; Phàn Khái Pao; Lồ Dìn Sửu; Lù Cồ Tiến
*Tác dụng, hiệu quả biện pháp:
	- Rèn kỹ năng hoạt động nhóm, tập thể cho HV. Tạo cho HV cách làm nhóm trưởng, điều hành hướng dẫn các thành viên trong nhóm làm việc hiệu quả theo nhóm.	
	- Đặt tên các nhóm là doàn tàu giúp HV hoạt động theo nhóm tìm hiểu vận dụng kiến thức thoải mái hơn, không gây áp lực cho HV từ đó tạo hứng thú làm việc cho HV.
	- HV trong các nhóm thi đua, hoàn thiện nhiệm vụ được giao trong giờ học, tạo hiệu quả trong giờ.
	- HV yếu có cơ hội học hỏi HV khá hơn, phù hợp với khả năng của HV ( bạn giúp bạn)
3.2.2. Cho học viên chơi trò chơi môn học:
* Nội dung biện pháp:
	Sử dụng Violet, powerpoint thiết kế các bài tập : trắc nghiệm, kéo thả ô chữ, bài tập ô chữ. Có cài đặt hiệu ứng vỗ tay( học viên trả lời đúng), mặt lạ ( học viên trả lời sai) tạo khí thế, hứng thú cho HV trong giờ học.
 Bài tập 1: Bài tập trắc nghiệm chọn một phương án đúng (sử dụng phần mềm violet ):
1. Thông số đặc trưng của nguồn điện là:
A. Suất điện động	B. Suất điện động và điện trở trong
C. Khả năng thực hiện công	D. Lượng điện tích chứa trong nguồn điện.
2. Công suất điện được đo bằng đơn vị nào sau đây
A. Jun (J)	B. Oát (W)	C. Niutơn(N)	D. Culông(C)
Bài tập 2: Các đoàn tàu cùng hoàn thành một bài tập trên bảng, mỗi đoàn tàu cử lần lượt từng thành viên lên điền từng câu hỏi trong bài. Đoàn tàu nào hoàn thành trong thời gian ngắn hơn được điểm cao hơn.
 	Nối các ý của cột A với các ý tương ứng của cột B để được kiến thức đúng:
 Cột A	Cột B
1. Biểu thức định luật khúc xạ ánh sáng	a. Cường độ dòng điện
2. Đơn vị của công lực điện 	b. B = 2.10-7.
3. Tên nhà Bác học Anđrê-Mari Ampe 	c. Jun(J)
được đặt làm đơn vị của
4. Cảm ứng từ tại một điểm trong	 d. ion âm, ion dương, electron
 từ trường được xác định:
5. Hạt tải điện trong môi trường chất khí là 	e. n1.sin i = n2.sin r 
* Tác dụng, hiệu quả của biện pháp:
	- Làm giảm bớt suy nghĩ về môn học khó, phức tạp của HV đối với môn Vật lý.
	- HV đỡ mặc cảm về khả năng nhận thức kém của bản thân và giờ phụ đạo yếu kém.
	- HV được tìm hiểu, vận dụng kiến thức một cách tự giác và sáng tạo.
	- Khi HV trả lời đúng bài tập có tiếng vỗ tay động viên khích lệ hoặc biểu tượng mặt lạ khóc khi trả lời sai sé làm các HV thích thú hơn, muốn làm thêm bài tập hơn.
3.2.3. Kể chuyện về các nhà Vật lý :
* Nội dung biện pháp:
	- GV sưu tầm các câu truyện kể trực tiếp cho HV nghe, hoặc chiếu cho HV xem tư liệu về các nhà vật lý có kiến thức nằm trong chương trình lớp 11 như:
Anđrê-Mari Ampe: 
Nhà bác học vĩ đại Pháp Anđrê-Mari Ampe, có biệt danh là “Niu tơn của điện học”, sinh năm 1775 trong một làng gần Liông. Với một trí nhớ đặc biệt kỳ diệu, năm 13 tuổi Ampe đã đọc hết 20 cuốn của bộ Bách khoa từ điển của Điđơrô, và đến khi 50 tuổi vẫn có thể nhắc lại thuộc lòng những trích dẫn lớn. Nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất là những năng khiếu của ông trong lĩnh vực toán học
Năm 1793 cha ông phải lên đoạn đầu đài vì bị tố cáo có thiện cảm với giới quý tộc. Tất cả tài sản bị sung công và gia đình không còn nguồn sống nào cả.
Cậu con trai rất khốn khổ, suốt một năm trời không hoạt động gì. Tuy vậy, cuộc sống vẫn đặt ra cho ông những yêu cầu. Ông còn phải nuôi mẹ và hai em gái, nên đã cố gắng tìm được một chỗ dạy lớp đặc biệt ở Liông.
Một ngày kia, khi đi dạo trở về băng qua một con suối nhỏ, Ampe gặp một cô gái trẻ đẹp, đó là Giuli Carôn, chàng yêu ngay cô gái ấy. Nhưng người thiếu nữ trẻ cũng nghèo quá nên đám cưới của họ mãi ba năm sau mới tổ chức được, đó là năm 1799, khi Anđrê thành công, chiếm được một ghế giáo sư ở Bua (Bourg), một thành phố cách Liông 20km.
Vợ và con (nhà văn sĩ tương lai Giăn-Giăc Ampe) ở lại Liông. Ampe đã khổ tâm rất nhiều vì sự chia cách này. Thường thường ông phải đi bộ đoạn đường Bua-Liông để thăm gia đình, mà vì hoàn cảnh khó khăn ông không thể chu tất được.
Chính tại Bua, ông đã viết công trình đầu tiên của mình về phép tính xác suất. Tác phẩm đã tạo nên nhiều sự bàn luận. Ampe nhận được một ghế dạy ở Liông. Hạnh phúc tưởng như đón chào Ampe: Ông về lại với vợ con. Nhưng, hỡi ôi! Vợ ông lâm bệnh và mất năm 1803. Ampe kiệt sức và chán nản, ông đi Pari. Tại đây ông được phong làm giáo sư Đại học bách khoa. Năm 1808, ông làm tổng thanh tra đại học. Tình trạng vật chất của ông bây giờ đảm bảo hơn và ông lao cả thể xác và tâm hồn vào những khảo cứu khoa học
Ở tuổi 45 thiên hướng thật sự của ông phát triển trong lĩnh vực vật lý, điện học và từ h

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_to_chuc_gio_hoc_phu_dao_va.doc
  • docbao cáo tóm tắt hiệu quả SK.doc
  • docBIA SKKN.doc
  • docĐơn yêu câu công nhân SK.doc