Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp rèn kĩ năng viết văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7 THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp rèn kĩ năng viết văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7 THCS

Mục tiêu tổng quát của môn Ngữ văn trong trường THCS đã được cụ thể hóa thành ba phương diện: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Về kỹ năng, trọng tâm là làm cho học sinh có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Như vậy kỹ năng viết, tạo lập văn bản biểu cảm là một yêu cầu cơ bản mà học sinh phải nắm được một cách thành thạo.

Ở chương trình cũ học sinh chủ yếu học văn biểu cảm dưới các kiểu bài phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm, nhân vật văn học. Phạm vi phát biểu cảm nghĩ bị thu hẹp trong lĩnh vực văn học, tách rời mọi lĩnh vực của đời sống. Chương trình mới đã khắc phục hạn chế của chương trình cũ ở bốn điểm sau đây: phạm vi biểu cảm rộng hơn, chủ yếu biểu cảm về con người, về thiên nhiên sự vật xung quanh; biểu cảm đối với tác phẩm văn học chiếm tỷ lệ rất nhỏ; đề văn biểu cảm thường đơn giản và khái quát ngắn gọn: từ đề có thể khái quát thành tiêu đề của bài văn hoặc đề bài không có mệnh lệnh ( loài hoa em yêu ); tình cảm trong bài viết mang đậm giấu ấn cá nhân.

Về yêu cầu bài viết cá nhân của học sinh: lấy ngắn gọn, dễ hiểu, đủ ý làm tiêu chí. Chi tiết trong bài văn chân thật tự nhiên. Bài viết phải thể hiện được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.

Để khắc sâu kiến thức về văn biểu cảm, thực hành luyện tập rèn kỹ năng viết văn, kết hợp với luyện nói để rèn kỹ năng viết văn biểu cảm cho học sinh. Nếu làm được đầy đủ các biện pháp trên sẽ giúp học sinh nâng cao kỹ năng viết văn biểu cảm, hiệu quả của bài viết sẽ cao hơn.

docx 11 trang Mai Loan 26/04/2025 621
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp rèn kĩ năng viết văn biểu cảm cho học sinh Lớp 7 THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BÁO CÁO KẾT QUẢ
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Lời giới thiệu
 Đời sống tình cảm của con người là vô cùng phong phú, phức tạp. Các học 
giả Trung Hoa thời xưa đã phân loại tình cảm con người thành bảy trạng thái, 
gọi là “thất tình”, gồm: hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cụ (nghĩa là mừng, giận, yêu, ghét, 
buồn, vui, sợ). Nhưng đó mới chỉ là những trạng thái cơ bản vì trong thực tế tình 
cảm con người tinh tế hơn nhiều, thậm chí có những trạng thái pha tạp lẫn lộn 
mà ta không dễ gì gọi tên ra được. Như một tất yếu khách quan, khi đã có tình 
cảm nảy sinh trong lòng thì con người sẽ có nhu cầu biểu cảm. Nắm bắt được 
nhu cầu đó, chương trình ngữ văn THCS đã cho học sinh tiếp cận với thể loại 
văn biểu cảm ngay từ lớp 7. Bởi văn biểu cảm được xem là một trong những 
phương thức quan trọng giúp các em bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình. Thực 
tế ngày càng đòi hỏi học sinh không những nắm vững tri thức mà còn có kỹ 
năng thực hành vận dụng thành thạo các tri thức đã có trước mắt cũng như lâu 
dài. Ở môn Ngữ văn, học sinh phải tự mình tạo lập được những kiểu văn bản, 
trong đó văn bản biểu cảm có một vai trò hết sức quan trọng trong thời gian học 
sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, cũng như trong cuộc sống sau này. Thế 
nhưng học sinh còn rất nhiều điểm yếu trong quá trình viết văn biểu cảm như: 
lúng túng trong chọn đối tượng biểu cảm, vận dụng chưa thành thạo phương tiện 
ngôn ngữ, triển khai ý trong bài văn chưa mạch lạc, bố cục bài viết chưa rõ ràng, 
liên kết đoạn văn còn yếu.
 Chính vì thế, tôi đã đi sâu nghiên cứu vấn đề này và tìm ra phương pháp, áp 
dụng những biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh để rèn kỹ năng viết văn 
biểu cảm cho học sinh lớp 7.
 Nhiều năm tôi được phân công dạy Ngữ văn 7, dù đã bám sát chương trình 
sách giáo khoa, trong quá trình giảng dạy mặc dầu đã cố gắng rất nhiều song tôi 
vẫn nhận thấy một thực tế là: học sinh có bám sát yêu cầu của đề bài nhưng chất 
lượng bài viết chưa cao. Những điểm yếu của các em được thể hiện qua bài viết 
có thể kể ra như: nắm chưa chắc lý thuyết của làm văn biểu cảm, lúng túng khi 
lựa chọn đối tượng biểu cảm và thực hiện phương thức biểu cảm, chưa biết áp 
dụng những cách lập ý trong bài văn biểu cảm, kỹ năng viết đoạn và liên kết 
đoạn chưa thành thạo. Ngoài ra còn có tâm lý phổ biến của các em là ngại và 
thậm chí sợ khi phải viết văn.
 Từ thực trạng trên, bước sang năm học 2017 – 2018, tôi đã có ý thức tìm và 
thực hiện những biện pháp để nâng cao hiệu quả viết văn biểu cảm cho học sinh. 
Tôi đã dự tính những biện pháp đó là: coi trọng giờ dạy lý thuyết, kết hợp chặt 
chẽ giữa lý thuyết và thực hành, chú trọng việc tích hợp giữa ba phân môn đặc 
biệt giữa Tập làm văn với Văn học nên tôi đã mạnh dạn đề xuất Một vài biện 
pháp rèn kĩ năng viết văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 THCS
II. Tên sáng kiến: Một vài biện pháp rèn kĩ năng viết văn biểu cảm cho học 
sinh lớp 7 THCS
III. Tác giả sáng kiến:
 1 của bài văn biểu cảm, các yếu tố tự sự miêu tả trong văn biểu cảm, nắm được 
cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học. Cách thực hiện rất đa dạng, 
song nổi bật là sử dụng câu hỏi trắc nghiệm buộc học sinh suy nghĩ động viên 
học sinh hào hứng trả lời, qua đó nắm vững kiến thức. Cách làm này huy động 
được tất cả học sinh tham gia vào quá trình lĩnh hội, củng cố kiến thức, bởi tất 
cả đều được suy nghĩ, một số trả lời, một số khác nhận xét đánh giá bổ sung 
hoặc sửa chữa.
 Sau đây là một bài tập đã áp dụng khi giảng dạy (đáp án đúng)
Bài 1: Thế nào là một văn bản biểu cảm?
 A. Kể lại một câu chuyện cảm động
 B. Bàn luận về một câu chuyện cảm động trong cuộc sống
 C. Là những văn bản được viết bằng thơ
 D. Bộc lộ tình cảm, cảm xúc của con người trước những sự vật hiện tượng 
 trong đời sống
Bài 2: Dòng nào sau đây nói đúng về văn biểu cảm:
 A. Chỉ thể hiện cảm xúc, không có yếu tố miêu tả và tự sự.
 B. Không có lý lẽ, lập luận.
 C. Cảm xúc chỉ thể hiện trực tiếp
 D. Cảm xúc có thể được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp
 ( Hai bài trên được áp dụng cho tiết 20: Tìm hiểu chung về văn biểu cảm) 
Bài 3: Cho đoạn văn sau: “ Hồ Chí Minh là cái sản phẩm trong sáng nhất của 
giống nòi. Cụ Hồ là tinh hoa của muôn đời để lại. Vì sao chúng ta cảm động
không nói nên lời, khi nhìn thấy Hồ Chủ Tịch? Vì sao dân chúng thấy mặt Cụ
như thấy mặt mẹ, sung sướng giơ hai tay chào đón, ai nấy mặt mày hớn hở trong 
lòng thỏa thuê? Há chẳng phải vì Hồ Chủ Tịch kết tinh được muôn cái gì hay, 
đẹp nhất của mỗi người Việt Nam, há chẳng phải vì cụ Hồ là hiện thân của dân 
tộc?"
a. Theo em tình cảm nổi bật trong đoạn văn trên là:
 A. Ca ngợi tài năng trí tuệ của Hồ Chủ Tịch
 B. Ngợi ca sự nghiêp cách mạng của Hồ Chủ Tích
 C. Bày tỏ niềm ngưỡng vọng và kính yêu vô hạn của nhân dân đối với Bác 
 Hồ
 D. Bày tỏ những tình cảm của tác giả đối với Bác Hồ
b. Tác giả đã bày tỏ tình cảm bằng cách nào?
 A. Bày tỏ trực tiếp
 B. Miêu tả sự việc
 C. Liên tưởng so sánh
 D. Lối ẩn dụ tượng trưng
( Sự dụng trong tiết 23: Đặc điểm văn bản biểu cảm).
Củng có kiến thức lý thuyết bằng những bài tập chắc nghiệm đồng thời gắn lý
 3 Phân tích đề:
 Thể loại: văn biểu cảm.
Đối tượng biểu cảm: Yêu mến, ưa thích, thích thú và nhớ mãi.
Phương thức biểu cảm: Cả hai cách song chủ yếu là biểu cảm gián tiếp.
 Tìm ý và lập dàn ý:
 a.Mở bài:
 Giới thiệu mùa em thích.
 Giới thiệu chung tình cảm của mình.
 b.Thân bài
 Miêu tả mùa đã chọn: Những đặc điểm về thiên nhiên, cuộc sống, con người 
gắn liền với mùa mà em mến yêu. Có những kỷ niệm nào sâu sắc gắn với mùa 
để lại trong em ấn tượng khó quên. Cảm xúc lạ lùng của em khi mùa về và đi 
qua. Niềm mong ước của em.
 c.Kết bài
 Khẳng định tình cảm của em với đối tượng biểu cảm, ý nghĩa giáo dục tư 
tưởng tình cảm cho em và cho bạn bè.
 Tiếp theo là khâu hướng dẫn phân tích đề, tìm và lập dàn ý, tôi hướng dẫn 
học sinh viết bài. Chính là giúp các em lựa chọn phương thức biểu cảm thích 
hợp và đúng cách. Nếu là biểu cảm trực tiếp cần chú ý ngữ điệu, từ ngữ trực tiếp 
biểu lộ cảm xúc, sử dụng kiểu câu cảm với những từ cảm thán, sử dụng các phép 
tu từ đã học. Nếu biểu cảm gián tiếp cần chú ý mức độ sử dụng các yếu tố tự sự 
và miêu tả như một phương tiện để bộc lộ cảm xúc, tránh trường hợp lạm dụng 
hai yếu tố trên khiến bài viết trở thành bài văn tự sự hoặc miêu tả. Giúp các em 
viết dàn ý trong văn biểu cảm, chọn những dàn ý sao cho cho phù hợp với đề tài 
này.
 Ví dụ đề bài: “ Phát biểu cảm nghĩ về một đồ chơi tuổi ấu thơ” đòi hỏi 
phải lập ý theo cách hồi tưởng kỷ niệm về quá khứ là chủ yếu, rồi mới có thể kết 
hợp với các cách lập ý khác. Học sinh thấy được rằng không nắm được cách lập 
ý thì không thể triển khai ý theo yêu cầu đề bài này. Hoặc như đối với đề bài 
“Phát biểu cảm nghĩ một người thân yêu” thì có sự quan sát miêu tả suy ngẫm 
về đối tượng, ngoài ra có thể kết hợp các biện pháp khác.
 Theo tôi, cái khó nhất đối với học sinh khi viết bài là việc viết đoạn văn và 
liên kết đoạn văn lại với nhau để tạo thành một bài văn mạch lạc và hoàn 
chỉnh.Tôi đã chỉ ra cho học sinh thấy nguyên nhân cơ bản khiến các em lúng 
túng không biết bắt đầu đoạn văn như thế nào, triển khai nó ra sao và kết thúc nó 
để chuẩn bị chuyển sang đoạn tiếp theo chính là các em không coi trọng việc lập 
dàn ý và không bám sát vào dàn ý và không bám sát vào dàn ý để viết bài. Tức 
là học sinh chưa biết sử dụng giấy nháp hiệu quả. Vậy làm thế nào để giải quyết 
vấn đề này?
 Trước hết, tôi hướng dẫn học sinh sử dụng giấy nháp khi làm bài một cách 
đúng đắn. Đó là nơi thể hiện những công việc có tính chất “bếp núc” của mỗi 
người trong đó việc quan trọng nhất là xác định một dàn ý chi tiết cho một bài
 5 cảm của em? Tiêu đề bài viết của em? Phần mở bài từ đầu đếu đâu? Phần thân 
bài gồm mấy đoạn? Ý chính từng đoạn? Liên kết các đoạn bằng cách nào? Phần 
kết bài?.
 Về đoạn văn, chủ yếu là viết theo lối diễn dịch dễ viết hơn và dễ thuyết minh 
hơn theo câu hỏi: Đoạn văn bày tỏ tình cảm cảm xúc gì? Bằng phương thức 
nào? Cách lập ý là gì? Câu đầu đoạn văn nêu lên ý gì? Các câu sau nói cụ thể 
hơn ý ấy ra sao và câu cuối đoạn văn có tác dụng gì? Có những biện pháp tu từ 
nào được sử dụng ở đoạn văn, tác dụng?
 Tôi cho rằng học sinh thuyết minh được như trên thì cũng chính là các em đã 
thuộc và hiểu bài của mình từ đó nắm chắc hơn kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm, 
tránh được trường hợp học sinh viết bài qua loa, không có tình cảm, cảm xúc.
 Một việc quan trọng trong khi rèn luyện kỹ năng biểu cảm cho học sinh là 
cho phép khuyến khích học tiếp xúc với những bài văn từ các tài liệu tham khảo 
nhất là những tài liệu tham khảo trong danh mục do Bộ giáo dục và Đào tạo quy 
đinh. Việc này nhằm tăng vốn sống vốn hiểu biết và khả năng diễn đạt của học 
sinh. Tôi hướng dẫn học sinh cách học tập ở những bài văn có cách tìm ý, sắp 
xếp ý, diễn đạt ý, sử dụng các biện pháp tu từ, cách biểu đạt tình cảm cảm xúc 
sao cho tự hiên chân thực. Tránh việc học sinh chép trọn vẹn cả bài văn mẫu vào 
trong bài làm của mình.
 Để giảm bớt những lỗi dùng từ trong bài viết của học sinh, tôi vận động và 
hướng dẫn các em mượn, sử dụng từ điển hoặc là lập sổ từ. Khi viết bài gặp 
những từ nào chưa xuôi tai hoặc cảm thấy chưa ổn hay bí từ, các em có thể hỏi 
thầy, hỏi bạn, hỏi mọi người trong gia đình và tra trong từ điển hoặc sổ từ. Việc 
làm này rất có ích, bởi khi viết văn biểu cảm học sinh hay lúng túng khi sử dụng 
từ, và có những trường hợp hay nhầm lẫn từ, ví dụ như: “lãng mạn” với “ lãng 
mạng”, “tinh nghịch” với “ ngỗ nghịch”, “sán lạn” với “sáng lạn”
 Với đối tượng học sinh giỏi, ở những lớp bồi dưỡng tôi tăng cường ra đề 
luyện tập viết văn biểu cảm và trực tiếp chữa bài viết của từng em. Mục đích chỉ 
ra ưu nhược điểm từng bài viết ở từng em, vạch ra hướng sửa chữa hay phát huy 
cho bài sau.
 Thực hiện quan điểm dạy học tích hợp tôi đã tận dụng thời gian làm bài tập ở 
giờ tiếng Việt để rèn học sinh kỹ năng viết văn biểu cảm qua những bài tập như: 
“ Hãy viết một đoạn văn ngắn có sử dụng điệp ngữ thể hiện tình cảm của em với 
thầy cô giáo nhân ngày 20 tháng 11”.
 Để khuyến khích học sinh đến với môn học và nuôi dưỡng niềm thích thú 
học tập tích cực viết văn, nhất là viết văn biểu cảm, tôi rất chú ý quan sát tìm 
hiểu hoàn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm của học sinh, luôn gần gũi động viên 
khích lệ các em từ những tiến bộ nhỏ đến những cố gắng lớn, cho các em mượn 
sách, truyện của cá nhân và của nhà trường, sẵn sàng trả lời thắc mắc của các em 
về bài học cũng như trong cuộc sống  Những việc làm đó không mất thời gian 
và công sức bao nhiêu mà lại có tác dụng tạo mối quan hệ gần gũi giữa thầy và 
trò, khiến các em mạnh dạn hỏi bài, thoải mái bộc lộ tâm tư tình cảm của mình 
trong trang viết cũng như ngoài cuộc đời, những em chưa chịu khó học bài thì đã
 7

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_ren_ki_nang_viet_van.docx
  • pdfskkn_tuyen_2017_van_bieu_cam_301020179.pdf