Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp học sinh làm bài tập trắc nghiệm môn Hóa học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp học sinh làm bài tập trắc nghiệm môn Hóa học

nguồn nhân lực đó phải có một tri thức toàn diện. Chính điều này đòi hỏi con người phải luôn có sự phấn đấu cố gắng để chiếm lĩnh những tri thức để trở thành một con người vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Để có được nguồn tri thức đó buộc con người không còn con đường nào khác đó là phải tìm đến các bộ môn khoa học để tìm kiếm những thông tin tri thức, trong đó Hoá Học là bộ môn khoa học mà con người cần tìm hiểu. Hoá Học là bộ môn khoa học đóng góp nhiều trong việc cung cấp những thông tin cho con người. Đặc biệt nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách và tư duy cho con người.

 Với vai trò như vậy cho nên bộ môn Hoá Học ở trường THCS đã được quan tâm rất nhiều kể từ khi mà BGD có kế hoạch thay đổi chương trình SGK.

 Số tiết của lớp 8, chương trình lớp 9 được giữ nguyên nhưng kiến thức có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung cả ở 2 khối lớp 8, 9 khối lượng kiến thức tăng đặc biệt đã chú trọng đến việc biên soạn SGK theo phương pháp đổi mới đó là thời gian giành cho luyện tập, thực hành tăng, đồng nghĩa với việc nhằm tăng khả năng hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em có cơ hội nhiều hơn để rèn luyện các kỹ năng thực hành, giải bài tập.

 

doc 15 trang Trần Đại 27/04/2023 3632
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp học sinh làm bài tập trắc nghiệm môn Hóa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GDĐT THOẠI SƠN 
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 , ngày tháng năm 20......
BÁO CÁO 
Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng 
I- Sơ lược lý lịch tác giả:
	- Họ và tên: . 	Nam, nữ: ..
	- Ngày tháng năm sinh: ..
	- Nơi thường trú: ..
	- Đơn vị công tác: ...
	- Chức vụ hiện nay: .. 
	- Trình độ chuyên môn: .
	- Lĩnh vực công tác:..
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: 
	* Thuận lợi: 
	- Hoá học là bộ môn khoa học thực nghiệm đi nghiên cứu các chất và sự biến đổi của các chất.
	- Hoá học có thể giải thích được các hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong đời sống.
	- Thông qua các thí nghiệm trong các bài học đặc biệt là trong các bài tập thực hành, trắc nghiệm, nhận biết đã khích lệ tính tò mò, ham hiểu biết của các em, từ đó làm cho các em thêm yêu và thích bộ môn học này.
	- Được sự hậu thuẫn của các đồng nghiệp trong nhà trường nên phần nào cũng là động lực cho tôi nghiên cứu đề tài. Đồng với sự tham gia nhiệt tình của các em hoc sinh trong đối tượng tôi nghiên cứu làm nên sự thành công của đề tài. 
	* Khó khăn:
	Bên cạnh những thuận lợi trên thì khi nghiên cứu đề tài để áp dụng một cách rộng rãi thì tôi thấy còn một số những khó khăn sau:
	- Một khó khăn đầu tiên mà tôi gặp phải đó là kỹ năng giải bài tập hoá học của học sinh nói chung và giải bài tập trắc nghiệm nói riêng còn rất yếu và gần như tư duy để giải nhanh các bài tập dạng trắc nghiệm của học sinh chưa có.
	- Một khó khăn nữa cũng không kém phần quan trọng là các giáo trình bài tập còn thiếu, đặc biệt là giáo trình bài tập rèn luyện tư duy giải bài tập trắc nghiệm có chăng cũng chỉ là mang tính chất lồng nghép với một số dạng bài tập khác mà nó chưa được trình bày riêng chưa có được phương pháp cụ thể cho nên khi học sinh nghiên cứu dạng bài tập này còn gặp rất nhiều khó khăn.
	Để hoàn thiện vấn đề này tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp giải bài tập trắc nghiệm mang tính tư duy nhằm đáp ứng được cách ra đề thi trắc nghiệm như hiện nay.
	* Tên sáng kiến/đề tài giải pháp: “Một số phương pháp giúp học sinh làm bài tập trắc nghiệm môn Hóa học”.
	* Lĩnh vực: Hóa 8 - 9
III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến:
	1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
	Khi xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu về nguồn nhân lực càng lớn, nhưng đòi hỏi nguồn nhân lực đó phải có một tri thức toàn diện. Chính điều này đòi hỏi con người phải luôn có sự phấn đấu cố gắng để chiếm lĩnh những tri thức để trở thành một con người vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Để có được nguồn tri thức đó buộc con người không còn con đường nào khác đó là phải tìm đến các bộ môn khoa học để tìm kiếm những thông tin tri thức, trong đó Hoá Học là bộ môn khoa học mà con người cần tìm hiểu. Hoá Học là bộ môn khoa học đóng góp nhiều trong việc cung cấp những thông tin cho con người. Đặc biệt nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách và tư duy cho con người.
 	Với vai trò như vậy cho nên bộ môn Hoá Học ở trường THCS đã được quan tâm rất nhiều kể từ khi mà BGD có kế hoạch thay đổi chương trình SGK.
	Số tiết của lớp 8, chương trình lớp 9 được giữ nguyên nhưng kiến thức có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung cả ở 2 khối lớp 8, 9 khối lượng kiến thức tăng đặc biệt đã chú trọng đến việc biên soạn SGK theo phương pháp đổi mới đó là thời gian giành cho luyện tập, thực hành tăng, đồng nghĩa với việc nhằm tăng khả năng hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em có cơ hội nhiều hơn để rèn luyện các kỹ năng thực hành, giải bài tập.
	Như chúng ta đã biết Hoá Học giữ một vai trò hết sức quan trọng trọng hệ thống các môn khoa học. Nếu như: Toán, Lýtrang bị cho con người những kiến thức về tự nhiên xã hội thì Hóa Học cũng đóng góp một phần vào trong cái hệ thống hoàn chỉnh đó. Ngoài ra Hoá Học nó còn giải thích được các vấn đề, các hiện tượng trong tự nhiên, trong thực tế mà các bộ môn khoa học khác không có được từ đó giúp con người hiểu thêm đời sống thực tế. Hơn thế nữa với sự phát triển của khoa học kỹ thuật như hiện nay thì ngành Hoá Học nói chung đóng góp và giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế.
	Chính vì vai trò và vị trí của bộ môn khoa học Hoá Học như vậy cho nên việc đề ra phương pháp học bộ môn này mới là một vấn đề khó đối với học sinh. Vậy thì để học tốt bộ môn khoa học này thì cần phải trả lời được những câu hỏi sau: Học để làm gì? Đó là mục đích. Học như thế nào? Đó lại là phương pháp.
	Mặt khác Hoá Học lại là bộ môn khoa học thực nghiệm có nghĩa là học đi đôi với hành. Chính vì thế mà phương pháp là một vấn đề rất quan trọng trong môn học này. Đặc biệt là phương pháp giải bài tập nhận biết, trắc nghiệm trong hoá học lại càng khó khăn tức là để giải quyết được dạng bài tập này đòi hỏi người học cần phải nắm chắc về kiến thức lý thuyết trên cơ sở đó mới hình thành được phương hướng giải quyết bài tập. Ngoài ra còn phải có kỹ năng thực hành thí nghiệm và tư duy giải nhanh các bài tập loại trắc nghiệm đây là một phần không thể thiếu trong dạng bài tập nhận biết và bài tập trắc nghiệm.
	Hoá Học là khoa học nghiên cứu các chất, sự biến đổi và ứng dụng của chúng, đó là môn khoa học thực nghiệm. Hóa học có vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Hoá học đóng góp một phần rất quan trọng vào việc giải thích các hiện tượng trong thực tế, giúp cho mỗi chúng ta có ý thức hơn về các lĩnh vực mà Hoá học đề cập tới. Trong giảng dạy hoá học, nếu ta lồng ghép được các hiện tượng xảy ra trong thực tế và những bài tập về giải thích hiện tượng thì sẽ làm cho bài học trở lên sinh động hơn, gây hứng thú và sức thu hút với học sinh. Có như thế, chất lượng dạy học mới được nâng lên và đạt hiệu quả cao. Các xu hướng xây dựng bài tập Hoá học hiên nay là:
 - Loại bỏ những bỏ bài tập có nội dung hoá học nghèo nàn nhưng lại cần đến những thuật toán phức tạp để giải (Hệ nhiều ẩn, nhiều phương trình, bất phương trình, phương trình bậc hai, cấp số cộng, cấp số nhân).
 - Loại bỏ những bài tập có nội dung lắt léo, giả định, rắc rối, phức tạp, xa rời hoặc phi thực tiễn hoá học.
 - Tăng cường sử dụng bài tập thực nghiệm.
 - Tăng cường sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan.
 - Xây dựng bài tập về các hiện tượng thực tế và các bài tập về bảo vệ môi trường.
 - Xây dựng bài tập mới để rèn luyện cho học sinh năng lực phát triển vấn đề và giải quyết vấn đề.
 - Đa dạng hóa các loại hình bài tập như bài tập bằng hình vẽ, bài tập vẽ đồ thị, sơ đồ, bài tập về lắp ráp dụng cụ thí nghiệm
 - Xây dựng những bài tập có nội dung hoá học phong phú, sâu sắc, phần tính toán đơn giản nhẹ nhàng.
 - Xây dựng và tăng cường dạng bài tập thực nghiệm định lượng.
	Tóm lại với vai trò vị trí quan trọng của bộ môn khoa học hoá học như vậy nó góp phần làm nên một cái tổng thể toàn diện của khoa học nói chung giúp con người hình thành nên một thế giới quan và nhân sinh quan nhằm thúc đẩy sự phát triển tri thức của con người. Tạo ra một thế hệ người vừa hồng vừa chuyên phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội ngày càng phát triển. 
	Từ những cơ sở thực tiễn trên như nội dung chương trình cùng với chất lượng của học sinh tôi mạnh dạn đưa ra “Một số phương pháp giúp học sinh làm bài tập trắc nghiệm môn Hóa học”. Tuy nhiên sáng kiến này nó còn mang tính chất bó hẹp vì nó chỉ giới hạn ở một phần nhỏ của bài tập hoá học. Nhưng để giúp học sinh có cái nhìn khái quát hơn và ham học hơn cũng như là các em có thể từ đó giải bài tập một cách nhanh và dễ hiểu 
	2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
	Đối với bộ môn Hoá Học là môn học thực nghiệm vì vậy cần có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất như phòng thực hành thí nghiệm, đồ dùng, dụng cụ thực hành để học sinh có điều kiện học tập học theo đúng chương trình thay sách và đổi mới phương pháp dạy học.
	Trong điều kiện thực tế hiện nay, học sinh trong một lớp đông nên để áp dụng được nhiệm vụ chung của các môn học và đặc thù riêng của môn Hoá Học là “Dạy-học” bằng phương pháp thực nghiệm người thầy cần phải cho học sinh thấy được vai trò của các thí nghiệm trong các bài học nói chung và trong bài tập nhận biết nói riêng, sao cho học sinh không thể có điều kiện trực tiếp làm thí nghiệm thì cũng có hứng thú trong học tập bộ môn, dám đề xuất những phương án thí nghiệm, dự đoán kết quả của thí nghiệm từ đó kích thích tinh thần học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
	Chính vì thế mà ta cần có sự linh hoạt khi mà điều kiện giảng dạy không cho phép áp dụng những phương pháp tích cực một cách triệt để. Trong đó có một phương pháp có thể áp dụng đó là xây dựng các dạng bài tập trắc nghiệm, đây cũng là điều kiện rất tốt cho học sinh có khả năng tư duy logic nhằm củng cố kiến thức trong quá trình học tập.
	Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này ở cấp học THCS là một vấn đề khoa học không phải là mới đối với học sinh. Bởi lý do là hiện nay số lượng đầu sách nói riêng về rèn luyện tư duy logic cho học sinh thông qua dạng bài tập trắc nghiệm lại rất ít có chăng cũng chỉ lồng ghép với các dạng bài tập khác mà không trình bày một cách rõ ràng chuyên biệt cho nên gây nhiều khó khăn đối với học sinh khi nghiên cứu làm dạng bài tập này. Hơn nữa bài tập dạng trắc nghiệm khách quan liên quan rất nhiều đến việc phương pháp học và tư duy của học sinh. 
	Với số tiết như hiện nay cùng với phân phối chương trình thì việc rèn luyện kỹ năng giải bài tập trắc nghiệm là rất khó khăn vì thế mà cần phải có một giáo trình cơ bản trình bày ngắn gọn, rễ hiểu, xúc tích nhằm giúp giáo viên cũng như học sinh có khả năng dễ dàng thực hiện dạng bài tập này. Chính vì thế mà việc đưa ra phương pháp trình bày là một vấn đề khó khăn.
	Qua quá trình trực tiếp giảng dạy bộ môn Hoá học ở trường THCS tôi thấy rằng việc học sinh học bộ môn này cũng như khi làm dạng bài tập trắc nghiệm khách quan còn là một vấn đề khó khăn đối với các em. Phải chăng các em tập chung cho các môn khác như Văn, Toán  vì đây là những môn có liên quan thi vào cấp III hay Hóa học là bộ môn khó học?. Đó cũng chỉ là những câu hỏi mang tính chất dự đoán nhưng trong bất cứ giá nào thì cũng phải tạo cho học sinh những hứng thú trong học tập bộ môn này. Muốn vậy thì người thày phải biết thiết kế, tổ chức một giờ dạy như thế nào cho hợp lý và mang lại hiệu quả cao cho người học đồng thời phải rèn được những kỹ năng trong việc giải các dạng bài tập trong đó bài tập trắc nghiệm khách quan là một ví dụ vì đây không chỉ đơn thuần là trắc nghiệm khách quan mà là rèn luyện cho các em có một tư duy sáng tạo trong quá trình giải bài tập dạng này. Chính vì đặc thù của dạng bài tập này như vậy giáo viên có điều kiện tạo hứng thú cho học sinh, từ đó làm cho học sinh hứng, say mê với bộ môn khoa học này hơn.
	3. Nội dung sáng kiến 
	3.1. Đối tượng nghiên cứu:
	Nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 8, 9 của trường THCS 
	3. 2. Phạm vi nghiên cứu:
	Các bài dạy trong chương trình hóa học lớp 8, 9
	3.3. Một số phương pháp giải bài tập trắc nghiệm:
	Để hướng dẫn học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm theo tôi cần có những vấn đề cần chú ý sau đây:
	- Xuất phát từ những kiến thức và kỹ năng cơ bản từ cách giải thông thường mà học sinh biết, người giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra những quy luật, các mối quan hệ đặc biệt để từ đó dẫn đến cách giải nhanh.
	- Luôn luôn chú ý phát huy sự tích cực, chủ động của học sinh, tạo hứng thú học tập chho học sinh. Giáo viên hướng dẫn để học sinh phát hiện, chủ động tìm ra, nắm bắt được phương pháp giải. Như vậy làm cho học sinh hứng thú, có được niềm vui khi tự mình khám phá, từ đó kiến thức có được sẽ có tính lâu bền, vững chắc và quan trọng hơn là rèn luyện cho các em phương pháp tư duy. Trong đề tài này tôi xin đề cập đến một vài dạng bài tập rất hay gặp trong chương trình THCS và một số phương phải giải mang tính chất tư duy giúp giải được nhanh bài toán trắc nghiệm.
1. Bài toán xung quanh phần pha trộn dung dịch.
Như chúng ta đã biết phần dung dịch đặc biệt là phần pha chế trong chương trình hoá học 8, 9 thì có rất nhiều bài tập liên quan đến cách giải theo phương pháp đường chéo. Có thể nói rằng phương pháp đường chéo là một phương pháp giải tương đối nhanh và có tác dụng rất lớn giảm bớt thời gian và đáp ứng được yêu cầu về mặt thời gian. Sau đây là một số ví dụ tôi xin trính bày để minh họa.
	 Trước hết xin hướng dẫn sử dụng phương pháp đường cheo trong giải bài tập pha trộn dung dịch.
	Gọi m1,C1 lần lượt là khối lượng và nồng độ % của dd 1
	Gọi m2,C2 lần lượt là khối lượng và nồng độ % của dd 2
	Khi pha trộn dụng dịc 1 với dung dịch 2.
dd 1 C1 (C2 - C) 
V1, D1, mdd C
dd 2 C2 (C - C1)
V2, D2, mdd 
- Lập tỉ lệ ta có: 
- Tương tự có thể áp dụng với việc tìm khối lượng riêng hoặc số mol.
	 Ví dụ 1: Trộn 60(g) dd NaOH 20% với 40(g) dd NaOH 15% thu được dd NaOH có nồng độ phần trăm là:
 A. 16% B. 18% C. 20% D. 14%
Bải giải:
- Tôi xin trình bày theo 2 cách để thấy rõ được vai trò của phương pháp đường chéo.
* Cách 1: Theo phương pháp đại số.
 - Khối lượng của NaOH có trong 60(g) dd NaOH 20% là: 
- Khối lượng của NaOH có trong 40(g) dd NaOH 15% là: 
- Khối lượng chất tan sau khi trộn là: 12 + 6 = 18(g)
- Khối lượng dung dịch sau khi trộn là: 60 + 40 = 100(g)
- Nồng độ % của đ dịch sau khi trộn là: Áp dụng công thức 
Thay số ta có: .
Vậy chọn đáp án B.
	* Cách 2: Áp dụng theo phương pháp đường chéo ta có.
20% 20% - C 
 C 
 15% C - 15% 
 60(20% - C) = 40(C - 15%)
 C = 18%
Ví dụ 2: Cần pha bao nhiêu gam dd NaCl 20% vào 400(g) dd NaCl 15% để được dung dịch NaCl 16%.
 A. 100 B. 150 C. 200 D. 250
* Cách 1: Theo phương pháp đại số.
- Gọi a (g) (a>0) là số gam dd NaCl cần pha.
- Khối lượng NaCl có trong a(g) dd NaCl 20% là: 
- Khối lượng NaCl có trong 400(g) dd NaCl 15%% là: 
- Khối lượng chất tan sau khi trộn 2 dung dịch là: (0,2a + 60)(g)
- Khối lượng dung dịch sau khi trộn 2 dung dịch là: (a + 400) (g)
- Nồng độ % của dung dịch sau khi trộn là: Áp dụng công thức 
- Giải tìm được a = 100(g). Chọn đáp án A
* Cách 2: áp dụng theo phương pháp đường chéo.
 20% 
 16% - 15% 
 16% 
 15% 
 20% - 16% 
 Ta có mdd = 100(g). Chọn đáp án A
* So sánh 2 cách giải ta thấy
- Nếu giải theo phương pháp thông thường thì cũng cho ta kết quả. Hơn nữa có khi học sinh còn dễ hiểu. Nhưng lại rất mất thời gian mà dạng bài tập trắc nghiệm thì lại khắt khe về mặt thời gian. Nếu vậy thì sẽ không đáp ứng được về thời gian.
- Nếu giải theo phương pháp đường chéo thì lại cho ta kết quả rất nhanh không mất thời gian phù hợp với dạng bài tập trắc nghiệm. Nhưng nếu học sinh áp dụng không tinh thì có thể tìm được một kết quả không chính xác (tức là có khi tìm được kết quả âm).
	Nhưng để đáp ứngđược về mặt thời gian thì phương pháp đường chéo vẫn là công cụ hữu hiệu nhất để học sinh tận dụng được về mặt thời gian.
2. Dạng bài toán liên quan đến phương pháp bảo toàn nguyên tử.
- Có rất nhiều phương pháp để giải bài toán hoá học khác nhau, nhưng phương pháp bảo toàn nguyên tử và phương pháp bảo toàn số electron cho phép chúng ta gộp nhiều nhiều phương trình phản ứng lại làm một, quy gọn việc tính toán và nhẩm nhanh đáp số. Rất phù hợp với việc giải các bài toán hoá học trắc nghiệm. Cách thức gộp phương trình làm một và cách lập phương trình theo phương pháp bảo toàn nguyên tử sẽ được giới thiệu qua một số ví dụ sau đây:
Ví dụ 1: Khử hoàn toàn 17,6 (g) hỗn hợp gồm Fe, FeO, Fe2O3 cần 4,48 lít khí CO (đktc). Khối lượng Fe thu được là:
 A. 14,5 gam B. 15,5 gam C. 14,4 gam D. 16,5 gam
- Bài toán này nêu giải theo phương pháp đại số thì phải lập hệ phương trình và giải hệ, nếu vậy thì rất dài và mất thời gian.
- Nếu áp dụng theo phương pháp bảo toàn nguyên tử thì sẽ đơn giản và ngắn hơn rất nhiều:
Phương trình: FeO + CO Fe + CO2(1)
 Fe2O3 + 3CO 2Fe + 3CO2(2)
- Theo phương trình 1 và 2 ta thấy số nguyên tử O có trong CO bằng số nguyê tử O có trong 2 ôxit sắt. Vì thế khối lượng của ôxi trong 2 oxit sắt được tính như sau:
- Bài ra có số mol của CO là: 0,2(mol). Khối lượng của ôxi là: 0,2.16 = 3,2
- Do số nguyên tử O trong oxit sắt bằng số nguyên tử trong oxi nên khối lượng cũng bằng nhau và bằng 3,2(g).
- Khối lượng sắt thu được là: 17,6 - 3,2 = 14,4(g)
Vậy chọn đáp án C
 Ví dụ 2: Để khử hoàn toàn 3,04g hỗn hợp X gồm FeO, Fe3O4, Fe2O3 cần 0,05(mol)H2. Mặt khác hoà tan hoàn toàn 3,04g hỗn hợp X trong dung dịch H2SO4 đặc thu được thể tích SO2(Sản phẩm khử duy nhất) ở đktc là:
A. 448ml B. 224ml C. 336ml D. 112ml.
Giải: Thực chất phản ứng khử các oxit sắt trên là:
 H2 + O H2O.
0,05mol 0,05mol.
Đặt số mol của hỗn hợp X gồm FeO, Fe3O4, Fe2O3 lần lượt là x, y, z ta có:
nO = x + 4y + 3z = 0,05 mol (1)
¦
¦x + 3y + 2z = 0,04 mol (2)
Từ (1) và (2) ta có: x + y = 0,02
Mặt khác:
2FeO + 4H2SO4 ¦ Fe2(SO4)3 + SO2 + 4H2O
 x x/2 
2Fe3O4 10H2SO4 ¦ 3Fe2(SO4)3 + SO2 + 10H2O
 y y/2
¦ Chọn đáp án B
	Ví dụ 3: Thổi từ từ V lít hỗn hợp khí ở (đktc) gồm CO và H2 đi qua một ống đựng 16,8g hỗn hợp gồm 3 oxit: CuO, Fe3O4, Al2O3 nung nóng, phản ứng hoàn toàn thu được m gam chất rắn và một hỗn hợp khí nặng hơn khối lượng của hỗn hợp V là 0,32g. Tính V và m.
A. 0,224 lít và 14,48g B. 0,672 lít và 18,46g
C. 0,112 lít và 12,28g D. 0,448 lít và 16,48g
Giải: Thực chất phản ứng khử các oxit trên là:
CO + O CO2 H2 + O H2O
- Khối lượng khí tạo thành nặng hơn hỗn hợp khí ban đầu chính là khối lượng của nguyên tử ôxi trong các ôxit tham gia phản ứng. Do vậy.
- Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có:
 môxit = mChất rắn + 0,32 m = 16,48g
¦ Chọn đáp án D
	Ví dụ 4: Thổi rất chậm 2,24 lít (đktc) hỗn hợp khí gồm CO và H2 qua một ống sứ đựng hỗn hợp gồm cá oxit: CuO, Fe3O4, Al2O3, Fe2O3 có khối lượng là 24g dư đang được nung nóng. Sau khi kết thúc phản ứng khối lượng chất rắn còn lại trong ống là:
A. 22,4g B. 11,2g C. 20,8g D. 16,8g
Giải: 
- Thực chất phản ứng khử các oxit trên là:
CO + O CO2 H2 + O H2O
 ¦ mO = 1,6g
- Vậy chất rắn còn lại trong ống sứ là: 24 - 1,6 = 22,4g ¦ Chọn đáp án A
3. Dạng bài toán liên quan đến phương pháp bảo toàn khối lượng.
Ví dụ 1: Khử hoàn toàn 6,64 gam hỗn hợp gồm: Fe, FeO, Fe3O4, Fe2O3 cần dùng vừa đủ 2,24 lít khí CO (đktc). Khối lượng Fe thu được là:
A. 5,4 gam B. 5,04 gam C. 5,03 gam D. 5,02 gam
Giải: 
Phương trình: FeO + CO Fe + CO2 (1)
 Fe2O3 + 3CO 2Fe + 3CO2 (2)
 Fe3O4 + 4CO 3Fe + 4CO2 (3)
- Bài ra số mol của khí CO là: 0,1 (mol). Khối lượng của CO là: 0,1.28 = 2,8g
- Theo phương trình 1, 2, 3 ta thấy tổng số mol của CO bằng tổng số mol của CO2 ta có số mol của CO2 là 0,1 (mol). Khối lượng của CO2: 0,1.44 = 4,4g 
- Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có:
 m hh chất ban đầu + mCO = mFe + 
 6,64 + 2,8 = mFe + 4,4
¦ khối lượng sắt thu được là: mFe = 5,04g
¦ Chọn đáp án B
Ví dụ 2: Cho một luồng khí CO dư đi qua ống sứ chứa 5,64 gam hỗn hợp gồm: Fe, FeO, Fe2O3, Fe3O4 (đun nóng). Sau khi phản ứng xẩy ra hoàn toàn, khí đi ra dẫn vào dụng dịch Ca(OH)2 dư thu được 8 gam kết tủa. Khối lượng của sắt thu được là:
A. 4,36 gam B. 4,63 gam C. 3,46 gam D. 3,64 gam
Giải:
Phương trình: FeO + CO Fe + CO2 (1)
 Fe2O3 + 3CO 2Fe + 3CO2 (2)
 Fe3O4 + 4CO 3Fe + 4CO2 (3)
 CO2 + Ca(OH)2 ¦ CaCO3 + 2H2O (4)
- Số mol của CaCO3 là: 0,8 (mol)
- Theo phương trình (4) số mol CO2 = số mol của CaCO3 = 0,08 (mol)
- Theo phương trình 1, 2, 3 ta thấy tổng số mol của CO bằng tổng số mol của CO2 ta có số mol của CO2 là 0,8 (mol). Khối lượng của CO2: 0,08.44 = 3,52g
- Khối lượng của khí CO là: 0,08.28 = 2,24g 
- Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có:
 m hh chất ban đầu + mCO = mFe + 
 5,64 + 2,24 = mFe + 3,52
¦ khối lượng sắt thu được là: mFe = 4,36g
¦ Chọn đáp án A
- Do thời gian không cho phép nên tôi cũng chỉ giới thiệu được một số ví dụ điển hình để minh hoạ cho mỗi phương pháp giải bài tập với cách nhẩm nhanh để các em học sinh tham khảo, đồng thời để các đồng nghiệp có thể lấy đó làm ví dụ trong quá trình hướng dẫn học sinh giải bài tập trắc nghiệm theo những phương pháp trên.
	3.4. phương pháp nghiên cứu:
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Trong đề tài này tôi có sử dung một số tài liệu có liên quan để nghiên cứu cụ thể n

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_giup_hoc_sinh_lam_b.doc