SKKN Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hóa học lớp 8 THCS

SKKN Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hóa học lớp 8 THCS

Trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói chung và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường nói riêng ,vấn đề này đã dược đề cập nhiều lần trong các văn kiện đại hội Đảng, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2020 là : Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo hợp tác, giảm thời gian giảng lí thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh . Giáo viên gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống.

Định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác,chủ động, sáng tạo , rèn luyện thói quen và khả năng tự học , tinh thần hợp tác , kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin niềm vui , hứng thú trong học tập

Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một chuỗi liên kết thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức có tác dụng về các mặt: tổng hợp, ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD).

Hoá học là môn học mới và rất khó đối với học sinh cấp trung học cơ sở, đặc biệt là học sinh khối 8. Nhiều kiến thức và khái niệm rất trừu tượng, khó nhớ. Việc truyền thụ kiến thức mới đã khó, việc củng cố và hoàn thiện kiến thức là một vấn đề hết sức khó khăn.Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy và học môn hoá học ở trường THCS chúng ta luôn tìm cách đổi mới phương pháp và áp dụng triệt để các phương pháp đó để hoạt động dạy và học đạt kết quả cao nhất.

Sử dụng bản đồ tư duy góp phần đổi mới PPDH các môn học nói chung và môn hóa học nói riêng, vận dụng vào dạy học kiến thức mới hoặc hệ thống hóa kiến thức một chủ đề, một bài, một chương giúp học sinh ghi nhớ, ôn tập, liên kết các mạch kiến thức, phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo, phát triển tư duy, gây hứng thú say mê học tập cho học sinh một cách tốt nhất và hết sức cần thiết .Vì vậy tôi chọn đề tài " Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hóa học lớp 8 THCS,, để nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn hóa học lớp 8 ngày càng tốt hơn .

 

doc 19 trang thuychi01 12446
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hóa học lớp 8 THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
 Nội dung Trang
1.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1 
1.2. Mục đích của đề tài .................................................................... ..................1 
1.3 Đối tượng nghiên cứu......................................................................................1
1.4Phương pháp nghiên cứu..................................................................................2 2.NỘI DUNG SKKN
2.1 Cơ sở lý luận ..................................................................................................3 
2.2 Thực trạng .................................................................................................. ...4 
2.3 Kinh nghiệm sử dụng BĐTD trong dạy học hóa học 8 .............. .......... ..4-14 
2.4 Hiệu quả của SKKN .....................................................................................15 
3.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận ........................................................................................................16 
3.2 Kiến nghị .................................................................................................16-17
Tài liêu tham khảo...............................................................................................18
MỞ ĐẦU 
1.1.Lí do chọn đề tài
Trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói chung và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường nói riêng ,vấn đề này đã dược đề cập nhiều lần trong các văn kiện đại hội Đảng, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2020 là : Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo hợp tác, giảm thời gian giảng lí thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh . Giáo viên gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống.
Định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác,chủ động, sáng tạo , rèn luyện thói quen và khả năng tự học , tinh thần hợp tác , kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin niềm vui , hứng thú trong học tập
Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một chuỗi liên kết thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức có tác dụng về các mặt: tổng hợp, ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạoMột trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Bản đồ tư duy (BĐTD). 
Hoá học là môn học mới và rất khó đối với học sinh cấp trung học cơ sở, đặc biệt là học sinh khối 8. Nhiều kiến thức và khái niệm rất trừu tượng, khó nhớ. Việc truyền thụ kiến thức mới đã khó, việc củng cố và hoàn thiện kiến thức là một vấn đề hết sức khó khăn.Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy và học môn hoá học ở trường THCS chúng ta luôn tìm cách đổi mới phương pháp và áp dụng triệt để các phương pháp đó để hoạt động dạy và học đạt kết quả cao nhất.
Sử dụng bản đồ tư duy góp phần đổi mới PPDH các môn học nói chung và môn hóa học nói riêng, vận dụng vào dạy học kiến thức mới hoặc hệ thống hóa kiến thức một chủ đề, một bài, một chương giúp học sinh ghi nhớ, ôn tập, liên kết các mạch kiến thức, phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo, phát triển tư duy, gây hứng thú say mê học tậpcho học sinh một cách tốt nhất và hết sức cần thiết .Vì vậy tôi chọn đề tài " Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hóa học lớp 8 THCS,, để nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn hóa học lớp 8 ngày càng tốt hơn .
1.2.Mục đích nghiên cứu.
Nhiệm vụ của đề tài này là tìm hiểu những kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy hoá học 8 THCS .
1.3.Đối tượng nghiên cứu 
Soạn giảng bộ môn hóa 8 theo bản đồ tư duy .
Học sinh lớp 8 trường THCS Lưu Vệ Quảng Xương.
1.4. Phương pháp nghiên cứu .
- Phương pháp nghiên cứu dựa trên những tài liệu, công trình khoa học có liên quan, phương pháp dạy học, lý luận dạy học, sách giáo khoa, sách giáo viên hoá học lớp 8, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên và một số sách báo, tạp chí...
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lý luận
Bản đồ tư duy là gì?
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí, lich sử có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy được tối đa năng lực tư duy , sáng tạo của mỗi người.
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì... BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch lạc. Tony Buzan là người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu tìm ra hoạt động của bộ não. Theo Tony Buzan “một hình ảnh có giá trị hơn cả ngàn từ” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang đến cho BĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo”. 
Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức,...
BĐTD rất phù hợp với đặc điểm tâm lí của học sinh cấp THCS (thích tư duy bằng hình ảnh trực quan, màu sắc rực rỡ, thích khám phá những cái mới)
BĐTD có thể vẽ trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy,Bất kì học sinh nào cũng có thể lập được dưới sự hướng dẫn của thầy cô và bạn bè. BĐTD cũng có thể thiết kế trên powerpoint hoặc các phần mềm bản đồ tư duy. Tuy nhiên, việc dùng giấy, bút chì, bút màu, tẩy, để vẽ BĐTD có ưu điểm là giúp người lập BĐTD dễ dàng phát triển ý tưởng và bổ sung ý tưởng qua đó phát huy tối đa tính sáng tạo của mỗi người, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của mỗi người, được tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), tự “sáng tác” nên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng cá nhân và cũng do mỗi người tự làm nên càng yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. Với vật liệu dễ kiếm, rất kinh tế cách làm đơn giản BĐTD có thể vận dụng được với bất kì điều kiện nào của các nhà trường hiện nay.
2.2.Thực trạng sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy ở các trường THCS hiện nay. 
Vấn đề ứng dụng (BĐTD) trong dạy học mới được áp dụng từ năm 2006-2007 trong  Dự án « Ứng dụng công cụ phát triển tư duy – sơ đồ tư duy » của nhóm Tư duy mới (New Thinking Group) Đại học Quốc gia triển khai. 
Kể từ đó có một số giáo viên đã vận dụng bản đồ tư duy trong công việc và trong dạy học. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy hiện nay, việc sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy học vận còn hạn chế, một số giaó viên chưa nắm vững, ít khi thực hiện hoặc có thực hiện thì cũng mang tính hình thức, chưa phát huy được hiệu quả tích cực của nó .
Trong trường tôi, qua các giờ dự tôi thấy rằng, giáo viên các bộ môn đã biết vận dụng BĐTD như một phương tiện dạy học mới, đã biết kết hợp với các phương tiện dạy học khác để dạy học có hiệu quả cao hơn cách dạy thông thường. Song còn một bộ phận giáo viên vẫn chưa vận dụng tối đa vào bài dạy của mình hoặc sử dụng qua loa chưa phát huy hết tác dụng của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học . Mặt khác có 1 số học sinh học chưa tốt .lười suy nghĩ,ngại tư duy quen với kiểu hoc vẹt theo lối mòn cũ...nên tiếp cận với phương pháp dạy và học này còn hạn chế dẫn đến giờ học nhàm chán và kém hiệu quả.
Trường THCS Lưu Vệ đối tượng học sinh không đồng đều một bộ phận học sinh học tốt chăm chỉ,chịu khó tư duy, thích khám phá cái mới...Nên thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp . Song có 1 bộ phận số học sinh học chưa tốt .lười suy nghĩ, ngại tư duy ...nên tiếp cận với phương pháp dạy và học mới còn hạn chế dẫn đến giờ học nhàm chán và kém hiệu quả.
Mặt khác trường vừa sát nhập tâm lí giáo viên và học sinh có ít nhiều xáo trộn, học sinh trong một lớp tăng lên, số lớp tăng, phòng học không đủ học 1 ca phải học 2 ca ...Nên ít nhiều có ảnh hưởng đến việc đổi mới phương pháp . 
Bản thân tôi nhận thấy : Sử dụng thành thạo và linh hoạt BĐTD trong dạy học các môn nói chung và môn hóa học nói riêng sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ. Học sinh học được phương pháp học tập tích cực, tăng tính đa dạng hóa cách học, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Với học sinh, việc tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo, biết thâu chuỗi các kiến thức một cách logic, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài giảng, tạo điều kiện phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinhqua đó, các em tự chiếm lĩnh kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên với tinh thần say mê và hứng thú học tập . Với các bài tập nhóm, sử dụng BĐTD còn giúp các em biết cách lập kế hoạch, phân công công việc, hợp tác để hoàn thành yêu cầu của giáo viên.Chính vì vây trước thực trạng trên tôi đã chỉ đạo giáo viên các bộ môn trong đó có môn hóa học sử dụng triệt để bản đồ tư duy trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
2.3 Kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học hóa học 8 
Hoá học lớp 8 là môn học mới đối với học sinh cấp trung học cơ sở, việc tiếp thu kiến thức và hình thành các kĩ năng cơ bản đầu tiên của môn hoá học đối với các em rất khó khăn. Việc hiểu bài đối với các em đã rất khó thì việc nhớ và vận dụng kiến thức còn khó khăn hơn. Tôi thấy rất nhiều học sinh mặc dù có hiểu bài nhưng các em vẫn chưa biết liên kết các kiến thức với nhau, chưa biết vận dụng kiến thức cũ để tìm tòi xây dựng kiến thức mới. 
Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học hoá học giúp giáo viên hệ thống kiến thức một cách khoa học và logic, nội dung bài học được thể hiện trên bản đồ một cách trực quan mà không bị bỏ sót ý. Không những thế, sử dụng BĐTD cũng giúp giáo viên tạo ra các hình thức học tập khác nhau, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, phối hợp sử dụng các thiết bị dạy học với nhaugóp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. 
Việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Tập cho học sinh có thói quen tự ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng BĐTD. Việc lập BĐTD còn giúp cho mỗi người phát triển khả năng thẩm mỹ, do việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng một cách khoa học súc tích, hợp lý, trực quan, dễ hiểu, dễ “đọc”, dễ tiếp thu. 
Để ghi chép sử dụng BĐTD một cách hiệu quả , cần thực hiện những nguyên tắc như: Làm bật ý tưởng chính; Tạo các nhánh; Dùng các từ khoá; Viết các ý tưởng quan trong to hơn, gần ý tưởng chính hơn; Sử dụng biểu tượng và hình minh hoạ
Khi vẽ BĐTD không nên cho quá đầy đủ thông tin , như thế bộ não lười hoạt động. Nên tìm các từ khoá và chỉ nên dùng vài từ cho mỗi điểm, BĐTD càng đơn giản càng kích thích não tìm tòi phần thiếu.
Có thể sử dụng BĐTD trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao bài về nhà; từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ việc học cá nhân đến nhóm, tập thể
2.3.1. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ 
Vì thời gian kiểm tra bài cũ lúc đầu giờ không nhiều chỉ khoảng 5 - 7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó,thông thường giáo viên chỉ yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập, không nhàm chán . Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ được giáo viên đưa ra ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. 
Việc hoàn thiện thông tin ở các nhánh còn thiếu là một yêu cầu đơn giản, không mất thời gian nhưng nếu học sinh không học bài thì sẽ không điền được thông tin hoặc điền không chính xác.
Ví dụ: Trước khi học bài 10 (Hoá học 8), giáo viên yêu cầu 1 học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện BĐTD về công thức hoá học như sau:
Sau khi đã hoàn thiện bản đồ, học sinh cần rút ra nhận xét cách viết CTHH của đơn chất , hợp chất và ý nghĩa của CTHH , hay nói cách khác là nhận xét về mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ khoá trung tâm. Đây chính là phần hiểu bài của học sinh mà giáo viên nên căn cứ vào đó để đánh giá và nhận xét việc học bài ở nhà của học sinh. 
2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới
Có thể sử dụng BĐTD hỗ trợ hình thành kiến thức mới. Mục tiêu bài học được cô đọng trong một từ khóa hay hình ảnh đặt ở trung tâm. Hoặc giáo viên tự xây dựng hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh lần lượt vẽ các nhánh theo tiến trình hình thành kiến thức bài học mới, kết hợp với các phương pháp: trực quan, thảo luận nhóm, gợi mở - vấn đáp... để giúp học sinh tự khám phá kiến thức mới. Từ mỗi nhánh lại triển khai các nhánh phụ và mỗi nhánh phụ lại đi sâu khai thác những kiến thức mới và cụ thể hơn
Nhìn vào BĐTD, học sinh sẽ nhìn thấy bức tranh tổng thể kiến thức vừa học một cách dễ dàng.
 Ví dụ: Bài 26 Oxit (Hoá học 8), để biết được định nghĩa , cách phân loại và gọi tên oxit . Nếu giáo viên sử dụng phương pháp trình bày truyền thống thì vấn đề vẫn được giải quyết nhưng không hiệu quả vì vấn đề trình bày sẽ dàn trải, BĐTD xung quanh từ khóa đã mang lại cái nhìn tổng thể về oxit.
AxOy
Fe2O3 ; Na2O ; SO3 ; P2O5
thường
(Nếu kim loại có nhiều hóa trị thì gọi kèm hóa trị)
Giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội dung trong sách giáo khoa, Giáo viên thể hiện từ khoá trên bảng, yêu cầu học sinh trả lời và điền tiếp thông tin hoặc mỗi học sinh tự vẽ BĐTD vào vở của mình.Việc vẽ BĐTD theo nhóm nên thực hiện trước khi nghiên cứu tài liệu mới, kiến thức mới để cả nhóm tìm chiến lược giải quyết vấn đề hoặc cũng có thể thực hiện để hệ thống hoá kiến một chủ đề, một chương. Sau khi mỗi nhóm “vẽ” xong, đại diện của mỗi nhóm hoặc một số thành viên trong nhóm “thuyết trình” BĐTD cho cả lớp nghe để thảo luận, góp ý, bổ sung (nếu cần thiết).
Đặc biệt khi sử dụng cùng giáo án điện tử, BĐTD được thiết kế trên phần mềm với các hiệu ứng lần lượt hiện ra các thông tin để học sinh so sánh với bài của mình thì bài giảng rất hiệu quả.
2.33. Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức 
Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học là vệc làm rất có hiệu quả, đặc biệt đối với môn hoá học. Giáo viên sử dụng BĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng tâm, liên kết các kiến thức trong bài để học sinh có cái nhìn tổng thể về các kiến thức vừa học,từ đó vận dụng để giải các bài tập và định hướng trong việc tìm ra kiến thức cho bài tiếp theo. Học sinh sử dụng BĐTD để thể hiện lại sự hiểu biết của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận thức của học sinh, định hướng cho từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình cho phù hợp.
Với bản thân, tôi sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức nhiều hơn tất cả. Hấu hết cuối tiết học nào tôi cũng cho học sinh hình thành BĐTD về nội dung vừa học bằng nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc vào thời gian giờ học còn nhiều hay ít như :cho học sinh lên bảng vẽ BĐTD hoặc ra câu hỏi củng cố bài rồi phát vấn, học sinh đứng dưới lớp trả lời.Từ nội dung câu hỏi giáo viên hình thành BĐTD trên bảng,có nhấn mạnh kiến thức trọng tâm và giới thiệu nội dung bài tiếp theo có liên quan đến kiến thức vừa học. sau đó học sinh vẽ lại BĐTD này vào vở ở cuối bài vừa học. 
Ví dụ một số BĐTD tôi thiết kế dùng để củng cố bài như sau:
....
Thể lỏng: sát nhau, trượt lên nhau
Thể rắn:. Khít nhau, giao động tại chỗ
Thể lỏng: Sát nhau trượt lên nhau
Thể khí: Xa nhau, chuyển động nhanh
x = 1 
x = 2
Cu, O2 , Al, C, H2
AxBy
H2O, Ca(OH)2 , CuSO4
Nước: là hợp chất tạo bởi 2 ngtố H, O
H2O
Sôi ở 1000C, hóa rắn ở 00C, D = 1g/ml
H2
Một số oxit kim loại (K2O; Na2O; BaO ) -> dd bazơ
Nhiều Oxit Axit (trừ SiO2) -> Axit tương ứng
Phân tử gồm 2 ngtử H và 1 ngtử O
Cần thiết cho đời sống hàng ngày, SXCN, NN, XD, GTVT...
 Có thể dùng BĐTD vừa để củng cố kiến thức vừa giới thiệu bài mới theo các BĐTD sau:
 là chất khí,không màu, k mùi
Tính chất vật lí
Tính chất hoá học
Ứng dụng 
Điều chế chÕ
nhẹ nhất trong tất cả các khí
ít tan trong nước
Tác dụng với oxi
Tác dụng với oxit KL
Dùng làm nhiên liệu
Là nguyên liệu điều chế NH3, 
Là chất khử ..
Nạp vào khí cầu, bóng thám không
Hi®ro 
 BĐTD này dùng để củng cố kiến thức về Hiđro ở tiết 47- 48 và giới thiệu mảng kiến thức sẽ học ở tiết 49 :Điều chế Hiđro . 
2.3.4.BĐTD hỗ trợ cho tiết tổng kết ôn tập kiến thức.
Tổng kết, ôn tập, hệ thống hoá kiến thức là việc làm bắt buộc không thể thiếu với giáo viên hoá học. Tuy nhiên không ít các tiết ôn tập củng cố đã không được giáo viên chú ý. Một số giáo viên thường cho học sinh nhắc lại một vài khái niệm, một vài kiến thức, chữa một vài bài tập, thế là xong. Với cách dạy như thế, học sinh không nắm được một cách khái quát kiến thức chương đó, không để lại một dấu ấn đáng nhớ nào và vì thế kiến thức các em nắm được không sâu sắc và chỉ nhớ được láng máng vài bài tập về chương đó.
Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch lôgic kiến thức hoặc các mối tương đương, cộng thêm màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học sinh nhìn thấy "Bức tranh tổng thể"cả một phần kiến thức đã học. 
 VD: Có thể sử dụng BĐTD để tổng kết chương I như sau:
TỔNG KẾT CHƯƠNG I
KHHH
NTHH
CHẤT
Nguyên tử
Phân tử
p n e
(+) (-)
p n e
(+) (-)
Số p = số e
Đơn chất
(do 1 NTHH tạo nên)
Kim loại
Phi kim
Hợp chất
(do từ 2 NTHH tạo nên)
Hc Vô cơ
Hc Hữu cơ
CTHH
Một số cách hướng dẫn học sinh xây dựng BĐTD trong tiết ôn tập, củng cố.
Cách 1: Giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh chuẩn bị ở nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập BĐTD, sau đó cho học sinh trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu với BĐTD do giáo viên lập ra. Từng em có thể bổ sung hay sửa lại BĐTD của mình và coi đó là tài liệu ôn tập của chính mình.
Cách 2: Giáo viên lập BĐTD mở. Trong giờ ôn tập, củng cố, giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu (hoặc thừa) thông tintrong t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_giang_day_hoa_h.doc