Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc trường Tiểu học Dray Sáp
Cơ sở lý luận
Làm thế nào để duy trì sĩ số học sinh dân tộc trong nhà trường? Làm thế nào để thầy cô hằng ngày không phải đến trường rồi lại chạy xe đi tìm học sinh? Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục?.Đó là những trăn trở của tất cả những giáo viên giảng dạy ở vùng có phần đông là học sinh dân tộc nói chung và trường Tiểu học Dray Sáp nói riêng. Người thầy dạy để học sinh nắm được kiến thức đã khó, bởi vì vốn tiếng Việt của các em còn rất hạn chế nhưng việc duy trì sĩ số còn khó khăn hơn gấp nhiều lần.
Theo cô Nguyễn Thị Thắm là một trong những giáo viên có thâm niên giảng dạy lâu năm nhất tại phân hiệu buôn Kuôp đã khẳng định: “Muốn có học sinh phải biết học sinh”. Điều đó có nghĩa là, giáo viên phải biết hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt, học tập của học sinh nếu muốn duy trì sĩ số và đảm bảo tỷ lệ chuyên cần.
Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của các cấp nhà trường đã chỉ đạo các bộ phận xây dựng kế hoạch cụ thể cho mỗi lĩnh vực sát với tình hình thực tế của đơn vị, triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc. Nhà trường khi xây dựng kế hoạch đầu năm học, mục tiêu duy trì sĩ số được nhà trường quan tâm hàng đầu vì học sinh có tham gia học tập chuyên cần thì mới nâng được chất lượng dạy và học.
Trong những năm qua nhà trường nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ như: Hỗ trợ chế độ chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên cùng với đó là sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác quản lí chỉ đạo: Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học; tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đa số giáo viên tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm; phù hợp với môn, lớp mình phụ trách tạo ra giờ học sôi nổi, thu hút các em đến trường.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhà trường vẫn còn nhiều băn khoăn, trăn trở như: Ở một số lớp còn có một số học sinh đi học chưa chuyên cần, chất lượng giáo dục thấp, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành các môn học còn cao.
Hằng năm UBND huyện Krông Ana cùng với Phòng giáo dục và Đào tạo huyện tổ chức mở hội nghị bàn về vấn đề duy trì sĩ số học sinh, nhìn nhận thẳng thắn trước những nguyên nhân khiến học sinh nghỉ học để từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực với sự vào cuộc của tất cả các ban ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa trước khi năm học mới gần kề.
Trong các buổi hội nghị, đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi, có nhiều giải pháp được cho là mang lại hiệu quả được đưa ra nhưng liệu rằng có bao nhiêu đơn vị đã tổ chức thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số HSDT? nói thêm về vấn đề này, thầy Võ Văn Bình (Tổ khối trưởng khối 4) bày tỏ: “Chúng tôi vẫn thường nói đùa nhưng rất thật với nhau rằng: “không trò đố thầy làm nên”. Phải chăng ở những vùng có đông học sinh dân tộc thiểu số nói chung và trường Tiểu học Dray Sáp nói riêng, nếu học trò không đến trường chuyên cần, tệ hơn là bỏ học thì đây chính là thất bại của người thầy.
Do đó, để làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh,từng bước nâng cao chất lượng dạy - học, chúng ta không phải là cứ nhồi nhét kiến thức cho học sinh bằng cách bắt học sinh phải học nhiều, học thêm mà phải hiểu rằng sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động dạy học và vui chơi ở trường. Vì vậy để thu hút học sinh đến trường, nhà trường phải luôn tạo một bầu không khí, một môi trường học tập thật thân thiện để mỗi học sinh thấy vui thích khi đến trường.
Bên cạnh đó là sự phối kết hợp chặt chẽ, cùng chung tay vào cuộc giữa nhà trường, cha mẹ học sinh, các ban ngành, đoàn thể chính quyền địa phương.
Duy trì sĩ số sinh dân tộc tại đơn vị mà tôi đang công tác là một hoạt động mang tính lâu dài, đòi hỏi người lãnh đạo phải linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén, có niềm tin trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện. Xác định nhiệm vụ duy trì sĩ số học sinh là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, do đó tập thể sư phạm nhà trường luôn nỗ lực hết mình để các em thấy được tấm lòng của thầy cô mà vui vẻ đến trường, chăm chỉ học tập, để các em xem trường, lớp như ngôi nhà thứ hai của mình.
I. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Trong bức thư cuối cùng của Bác Hồ gửi ngành Giáo dục và Đào tạo, ngày 15-10-1968, một lần nữa, Bác nêu rõ: "Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Ðảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới". Trong Di chúc, Bác nhấn mạnh trách nhiệm của Ðảng đối với việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ: "Ðảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Nhiệm vụ của ngành Giáo dục và Đào tạo trong thời kì CNH - HĐH và hội nhập quốc tế vô cùng quan trọng đó là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Vì vậy học sinh được xác định là đối tượng đặc biệt quan trọng trong hoạt động dạy - học của nhà trường. Vấn đề duy trì sĩ số học sinh trong nhà trường, đặc biệt là học sinh dân tộc là vấn đề quan trọng được đặt ra không chỉ đối với nhà trường, với ngành giáo dục mà là vấn đề cần được sự quan tâm của toàn xã hội. Từ khi được bổ nhiệm làm công tác quản lí tại Trường tiểu học Dray Sáp, cùng với tập thể sư phạm nhà trường, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Phải làm thế nào để duy trì sĩ số học sinh? Có duy trì được sĩ số học sinh dân tộc thì mới nâng cao được hiệu quả giáo dục. Những học sinh thất học là mối nguy hiểm lớn cho xã hội, các em dễ dàng dính vào các tệ nạn xã hội, dễ dàng bị kẻ xấu lôi kéo, dụ dỗCác em sau này lớn lên nếu không học hành đầy đủ liệu có tìm được một công việc ổn định, ít nhất cũng tự nuôi sống bản thân mà không phải phụ thuộc vào người khác. Người dạy “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”. Trường Tiểu học Dray Sáp mà tôi đang công tác là nơi mà học sinh chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm gần 60% số học sinh của toàn trường, các em còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp. Bên cạnh đó vốn tiếng Việt của các em hạn chế, Các em chỉ nói tiếng Việt khi ở trường còn khi về với gia đình, các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt của các em gặp nhiều khó khăn, không nói thành thạo tiếng Việt là một trong những nguyên nhân làm cho các em ngại đến trường, đến lớp. Đa số cha mẹ các em chủ yếu làm nông nên họ ít quan tâm đến việc học hành, việc giáo dục con cái ở nhà. Thậm chí nhiều phụ huynh khoán trắng việc giáo dục cho nhà trường, không quan tâm, gần gũi con cái nên không phát hiện những biểu hiện tiêu cực trong các em, nhất là các em ham chơi, mê games thường xuyên trốn học. Bên cạnh đó một số em có hoàn cảnh đặc biệt như: chỉ có mẹ, không có bố hoặc có bố mà không có mẹ nên thiếu sự quản lý, giáo dục; một số em lớn tuổi, ngại đến lớp sợ các bạn trêu chọc, chỉ muốn ở nhà chăn bò, làm thuê kiếm tiền. Bên cạnh đó, một số bộ phận giáo viên còn thiếu trách nhiệm, sợ khó, sợ khổ. Giáo viên đến lớp chỉ biết dạy cho xong rồi về không quan tâm đến lí do vì sao hôm nay học sinh lại nghỉ học, không gần gũi tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng xem các em muốn gì? Cần gì? Các em nghĩ lâu ngày không đến vận động, cứ như vậy dần dần học sinh sẽ nghỉ học lâu ngày và không muốn đến lớp nữa. Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, một trong những nhiệm vụ quan trọng ngành đặt ra cho mỗi địa phương, mỗi đơn vị trường học chính là công tác đảm bảo duy trì sĩ số. Sự phối kết hợp tốt giữa nhà trường, gia đình và xã hội là tiền đề đảm bảo cho việc duy trì sĩ số học sinh nói chung và học sinh dân tộc nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường. Trong thực tiễn, việc vận dụng nhiều biện pháp nhằm duy trì sĩ số đối với học sinh dân tộc đã được các cấp triển khai nhưng chưa có tính khả thi, chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Ở một số trường trong địa bàn huyện, học sinh vẫn nghỉ học nhiều, tỷ lệ chuyên cần chưa cao. Xuất phát từ thực tế trên, là người quản lý các hoạt động chuyên môn trong nhà trường. Tôi nhận thấy nhà trường vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp các em yên tâm học tập, không trốn học, bỏ học cũng như vận động thuyết phục học sinh bỏ học trở lại trường và xem việc đến trường để học các môn học là mục tiêu của chính các em. Với ý tưởng đã được trải nghiệm và thực tiễn kiểm chứng của bản thân, nên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc trường tiểu học Dray Sáp”. Từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc đã được áp dụng đạt hiệu quả tại đơn vị. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a. Mục tiêu của đề tài - Xác định thực trạng về việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc ở trường Tiểu học Dray Sáp. - Đưa ra một số biện pháp quản lý chỉ đạo nhằm duy trì sĩ số học sinh dân tộc của nhà trường. b. Nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu thực trạng về việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc tại trường. - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về biện pháp quản lý chỉ đạo đối với việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc. - Đề xuất tổ chức thực nghiệm một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc (phân hiệu buôn Kuôp) trường Tiểu học Dray Sáp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. 3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu trong khuôn khổ một số biện pháp quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc (phân hiệu buôn Kuôp) trường Tiểu học Dray Sáp. 4. Giới hạn của đề tài Giáo viên, học sinh trường Tiểu học Dray Sáp - xã Dray Sáp - huyện Krông Ana - tỉnh Đắk Lắk. Thời gian nghiên cứu: Năm học 2016 - 2017. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý luận. - Phương pháp trải nghiệm thực tiễn, điều tra, quan sát, phỏng vấn, đàm thoại, giao tiếp. - Phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lý luận Làm thế nào để duy trì sĩ số học sinh dân tộc trong nhà trường? Làm thế nào để thầy cô hằng ngày không phải đến trường rồi lại chạy xe đi tìm học sinh? Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục?...Đó là những trăn trở của tất cả những giáo viên giảng dạy ở vùng có phần đông là học sinh dân tộc nói chung và trường Tiểu học Dray Sáp nói riêng. Người thầy dạy để học sinh nắm được kiến thức đã khó, bởi vì vốn tiếng Việt của các em còn rất hạn chế nhưng việc duy trì sĩ số còn khó khăn hơn gấp nhiều lần. Theo cô Nguyễn Thị Thắm là một trong những giáo viên có thâm niên giảng dạy lâu năm nhất tại phân hiệu buôn Kuôp đã khẳng định: “Muốn có học sinh phải biết học sinh”. Điều đó có nghĩa là, giáo viên phải biết hoàn cảnh, điều kiện sinh hoạt, học tập của học sinh nếu muốn duy trì sĩ số và đảm bảo tỷ lệ chuyên cần. Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của các cấp nhà trường đã chỉ đạo các bộ phận xây dựng kế hoạch cụ thể cho mỗi lĩnh vực sát với tình hình thực tế của đơn vị, triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc. Nhà trường khi xây dựng kế hoạch đầu năm học, mục tiêu duy trì sĩ số được nhà trường quan tâm hàng đầu vì học sinh có tham gia học tập chuyên cần thì mới nâng được chất lượng dạy và học. Trong những năm qua nhà trường nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ như: Hỗ trợ chế độ chính sách cho học sinh vùng đồng bào dân tộc; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viêncùng với đó là sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác quản lí chỉ đạo: Tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học; tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh... Đa số giáo viên tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm; phù hợp với môn, lớp mình phụ trách tạo ra giờ học sôi nổi, thu hút các em đến trường. Bên cạnh những kết quả đạt được, nhà trường vẫn còn nhiều băn khoăn, trăn trở như: Ở một số lớp còn có một số học sinh đi học chưa chuyên cần, chất lượng giáo dục thấp, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành các môn học còn cao. Hằng năm UBND huyện Krông Ana cùng với Phòng giáo dục và Đào tạo huyện tổ chức mở hội nghị bàn về vấn đề duy trì sĩ số học sinh, nhìn nhận thẳng thắn trước những nguyên nhân khiến học sinh nghỉ học để từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực với sự vào cuộc của tất cả các ban ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa trước khi năm học mới gần kề. Trong các buổi hội nghị, đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi, có nhiều giải pháp được cho là mang lại hiệu quả được đưa ra nhưng liệu rằng có bao nhiêu đơn vị đã tổ chức thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số HSDT? nói thêm về vấn đề này, thầy Võ Văn Bình (Tổ khối trưởng khối 4) bày tỏ: “Chúng tôi vẫn thường nói đùa nhưng rất thật với nhau rằng: “không trò đố thầy làm nên”. Phải chăng ở những vùng có đông học sinh dân tộc thiểu số nói chung và trường Tiểu học Dray Sáp nói riêng, nếu học trò không đến trường chuyên cần, tệ hơn là bỏ học thì đây chính là thất bại của người thầy. Do đó, để làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh,từng bước nâng cao chất lượng dạy - học, chúng ta không phải là cứ nhồi nhét kiến thức cho học sinh bằng cách bắt học sinh phải học nhiều, học thêm mà phải hiểu rằng sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt động dạy học và vui chơi ở trường. Vì vậy để thu hút học sinh đến trường, nhà trường phải luôn tạo một bầu không khí, một môi trường học tập thật thân thiện để mỗi học sinh thấy vui thích khi đến trường. Bên cạnh đó là sự phối kết hợp chặt chẽ, cùng chung tay vào cuộc giữa nhà trường, cha mẹ học sinh, các ban ngành, đoàn thể chính quyền địa phương. Duy trì sĩ số sinh dân tộc tại đơn vị mà tôi đang công tác là một hoạt động mang tính lâu dài, đòi hỏi người lãnh đạo phải linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén, có niềm tin trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện. Xác định nhiệm vụ duy trì sĩ số học sinh là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, do đó tập thể sư phạm nhà trường luôn nỗ lực hết mình để các em thấy được tấm lòng của thầy cô mà vui vẻ đến trường, chăm chỉ học tập, để các em xem trường, lớp như ngôi nhà thứ hai của mình. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Trường tiểu học Dray Sáp có rất nhiều ưu thế để đẩy mạnh công tác duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc như: Nhờ sự chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục và Đào tạo, sự quan tâm của chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp ủy, ban tự quản thôn Anna, buôn Kuôp và sự vào cuộc mạnh mẽ của Ban đại diện cha mẹ học sinh nhà trường. Ban giám hiệu năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhân viên tham gia các lớp bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên đoàn kết,quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Đội ngũ GV phần lớn là lực lượng trẻ, năng động, nhiệt tình, tâm huyết, trình độ chuyên môn được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn. Bản thân tôi có kinh nghiệm trong công tác vận động học sinh dân tộc thiểu số; có hiểu biết về phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc, có vốn kiến thức cơ bản về tiếng dân tộc. Một số cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học tập của con em. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học cơ bản đảm bảo phục vụ cho công tác dạy và học. Học sinh dân tộc thiểu số có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. Tỷ lệ bình quân học sinh/lớp thấp so với mặt bằng chung của huyện (Trung bình 20 HS/ lớp) nên có nhiều thuận lợi trong công tác duy trì sĩ số, nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì công tác duy trì sĩ số học sinh dân tộc tại trường Tiểu học Dray Sáp còn gặp không ít khó khăn: Trường đóng trên địa bàn xã khó khăn, điểm lẻ cách điểm chính gần 10 cây số. Địa bàn dân cư rộng, đường sá đi lại mặc dù đang được cải tạo, nâng cấp nhưng việc đi lại vẫn còn nhiều khó khăn. Trình độ giáo viên không đồng đều, một số giáo viên chậm đổi mới, còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng sư phạm, kỹ năng xử lý tình huống; thiếu nhạy bén trong việc sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học...khả năng diễn thuyết khi đi vận động, tuyên truyền tới CMHS chưa thực sự thuyết phục. Trình độ công nghệ thông tin của một số giáo viên (giáo viên lớn tuổi) còn nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận phần mềm hệ thống quản lý thông tin trường học VnEdu. Một số giáo viên được phân công giảng dạy tại phân hiệu buôn Kuôp chưa sử dụng thành thạo tiếng của đồng bào dân tộc nơi đây (Dân tộc M’nông; Êđê) nên ảnh hưởng nhiều tới quan hệ, giao tiếp. Học sinh đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm gần 60%, đa số các em còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp; việc tiếp thu bài còn nhiều hạn chế, học trước, quên sau; một số học sinh kỹ năng đọc còn chậm, còn có học sinh viết được nhưng đọc còn phải đánh vần (một số học sinh lớp 2, lớp 3). Ngôn ngữ bất đồng, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, hàng ngày các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ. Đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến việc hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của các em gặp nhiều khó khăn. Trình độ dân trí thấp, đa số cha mẹ các em đều làm nông, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên chưa thật sự quan tâm, chăm lo, nhắc nhở các em đến trường, thường bắt con em ở nhà chăn bò, lên nương, làm rẫy, trông em, nhất là vào mùa vụ. Công tác tuyên truyền , vận động học sinh, CMHS; sự phối kết hợp với các tổ chức chính quyền, đoàn thể ở thôn, buôn chưa hiệu quả. Họ còn phó mặc cho nhà trường, coi đó là trách nhiệm của nhà trường phải làm. Trang thiết bị, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đáp ứng yêu cầu dạy học hai buổi/ngày. Việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giao lưu, tuyên truyền... nhằm thu hút trẻ đến trường còn tổ chức hời hợt mang tính hình thức, chưa chú trọng đến hiệu quả, chưa được quan tâm đúng mức. Các thực trạng nói trên bắt nguồn từ các nguyên nhân sau: *Nguyên nhân chủ quan: Đội ngũ giáo viên còn nhiều hạn chế trong việc sử dụng ngôn ngữ ở địa phương (đồng bào dân tộc M’nông, Êđê). Phong tục tập quán, lối sống, thói quen sinh hoạt đã hình thành từ lâu đời, muốn thay đổi được những vấn đề trên là một việc không dễ dàng. Do đó học sinh không thích đến trường học tập, ngại giao tiếp với giáo viên một phần bắt nguồn từ nguyên nhân trên. Một số giáo viên không có chí tiến thủ, chậm đổi mới phương pháp dạy học, chỉ đến lớp dạy hết tiết, hết buổi rồi về, chưa thật sự phát huy hết vai trò, trách nhiệm của một người giáo viên, chưa gần gũi nắm bắt tâm lí xem các em cần gì? Mong muốn điều gì? nên chưa có được hiệu quả tốt nhất trong việc nâng cao chất lượng dạy - học, từ đó học sinh không hứng thú học tập, dẫn đến chán học, bỏ học. Việc luân chuyển giáo viên giảng dạy giữa hai điểm trường theo định kì hai năm (cứ hai năm dạy ở phân hiệu buôn Kuôp thì lại chuyển ra ngoài điểm chính dạy). Đây là một biện pháp tích cực, đảm bảo sự công bằng cho giáo viên.Tuy nhiên việc tổ chức luân chuyển giáo viên còn mang tính cứng nhắc, chưa có tính kế thừa. Nhà trường chưa chú trọng trong phân công chuyên môn phải giữ lại một số giáo viên có tiếng nói, uy tín tốt giảng dạy lâu năm ở một điểm trường để cùng phối hợp tuyên truyền, vận động các ban ngành, đoàn thể cùng chung tay với nhà trường trong việc duy trì sĩ số học sinh. Một bộ phận giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên dạy thay kể cả một số giáo viên bộ môn chưa thực sự có tinh thần trách nhiệm. Họ thường có tâm lí sợ phải vào dạy ở điểm trường buôn Kuôp, chưa xác định rõ vai trò nhiệm vụ của bản thân trong công tác duy trì sĩ số học sinh, thiếu nhạy bén, chưa có biện pháp phù hợp để ngăn chặn các vấn đề phát sinh xảy ra trong quá trình giảng dạy. Cơ sở vật chất tại phân hiệu buôn Kuôp còn thiếu phòng học (thiếu 03 phòng học) nên chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất để đảm bảo tổ chức dạy học hai buổi/). Hệ thống tường rào hư hỏng, công trình vệ sinh xuống cấp, thiếu nguồn nước sạch phục vụ nhu cầu thiết yếu cho giáo viên, học sinh. Một số hộ chăn nuôi làm chuồng dê, chuồng gà sát ngay trường học, mùi hôi thối của phân gia súc, gia cầm bốc lên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Bản thân một số em không ý thức được tầm quan trọng của việc học. Các em coi việc đi học như là một nhiệm vụ bắt buộc phải đi, thích thì các em lên lớp, không thích thì các em ở nhà đi chơi, có khi vẫn lên trường nhưng không vào lớp học, thấy thầy cô ra là chạy trốn, đi lang thang ở bên ngoài hoặc vào khu du lịch Thác Dray Nu để đi xin tiền khách du lịch, lượm vỏ lon bia bán lấy tiền tiêu xài. Vai trò lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa đủ mạnh, quyết tâm chưa cao, sự phối hợp với nhà trường chưa thường xuyên, chưa có những biện pháp triệt để nhằm ngăn chặn tình trạng học sinh không đến trường, đi học chưa chuyên cần. Các tổ chức đoàn thể chưa thực sự vào cuộc, thiếu sự hợp tác nên việc tuyên truyền vận động nhân dân chưa kịp thời, chưa thật sự hiệu quả. Một số gia đình học sinh khi đến vận động thì hứa mai sẽ cho con em đi học nhưng rồi đâu lại vào đấy, học sinh nghỉ vẫn cứ nghỉ, hiện tượng này xảy ra thường xuyên như cơm bữa nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để. Trong các cuộc họp hội đồng, các buổi sinh hoạt chuyên môn vấn đề duy trì sĩ số học sinh mặc dù được đề cập nhiều nhưng một số biện pháp chỉ đạo chưa cụ thể, chưa xử lý thật hiệu quả sau kiểm tra. *Về nguyên nhân khách quan Trường TH Dray Sáp nằm địa bàn vô cùng khó khăn, phức tạp. Trường có hai điểm trường (điểm chính đặt tại thôn An Na, điểm lẻ đặt tại buôn Kuôp). Cách xa nhau gần 10 km nhưng chỉ một điểm lẻ được hưởng chế độ ưu đãi theo Nghị định116/NĐ – CP; đường sá đi lại mặc dù đã được nhà nước đầu tư nâng cấp nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Vào mùa nắng bụi bặm, vào mùa mưa thì đường trơn trượt, lầy lội. Học sinh đồng bào dân tộc chiếm gần 60%, các em còn nhút nhát, rụt rè, ngại giao tiếp. Ngôn ngữ bất đồng, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, hàng ngày các em giao tiếp với bố mẹ, cộng đồng bằng tiếng mẹ đẻ nên việc tiếp thu bài còn chậm , học trước, quên sau; một số học sinh kỹ năng đọc còn chậm, còn có học sinh viết được nhưng đọc còn yếu, còn phải đánh vần từng chữ, tiếp thu kiến thức còn chậm dẫn đến chán học rồi bỏ học. Một số gia đình phụ huynh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, lại đông con, đất sản xuất ít, không màu mỡ do không có tiền đầu tư. Cuối năm mất mùa, nợ nần họ nên việc học hành đối với con không được quan tâm nhiều. Một số CMHS bắt con ở nhà chăn bò, làm rẫy phụ giúp gia đình đặc biệt là vào mùa vụ. Những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học không còn diễn ra nhiều như những năm học trước, nhưng hiện tượng nghỉ học cách nhật, đặc biệt là vào mùa vụ hay các dịp lễ tết vẫn luôn xảy ra. Là người làm công tác quản lý, tôi hiểu rõ vấn đề cấp bách của công tác duy trì sĩ số. Học sinh bỏ học, bỏ tiết sẽ không lĩnh hội được kiến thức một cách đầy đủ, do đó ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Trước thực trạng đó, người quản lý phải hiểu rõ và phải xác định cho mình một trách nhiệm lớn lao nặng nề và phải biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt các biện pháp trong quản lý giáo dục; người quản lý còn phải thật sự tâm huyết, phải nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động chuyên môn của nhà trường mà chú trọng là công tác quản lý chỉ đạo việc duy trì sĩ số học sinh để nâng cao chất lượng dạy - học, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp Trong khuôn khổ đề tài này, bản thân đặt ra những mục tiêu như sau: - Thực hiện công tác tuyển sinh vào lớp 1; duy trì sĩ số học sinh dân tộc. - Chú trọng tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc. - Xây dựng một đội ngũ nhà giáo thực sự có tinh thần yêu nghề, tận tụy với công việc. - Giáo viên làm công tác phổ cập thường xuyên trao đổi và nắm bắt thông tin từ Ban cán sự của các lớp và giáo viên chủ nhiệm. - Sự phối hợ
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_quan_ly_chi_dao_viec.doc