Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn Lớp 3
Thực trạng của chất lượng giải toán có lời văn lớp 3D.
Qua khảo sát vào đầu năm học, ở lớp 3 với giai đoạn này các em đang tiếp nối kiến thức đã học từ lớp 1, lớp 2. Các bài tập thực hành là các bài toán đơn chỉ có một lời giải, một phép tính và đáp số.Với các dạng toán giải: Bài toán về nhiều hơn; bài toán về ít hơn. Tuy vậy, cũng đề toán dùng từ “nhiều hơn” nhưng phải thực hiện phép tính trừ; với đề toán dùng từ “ít hơn” lại thực hiện bằng phép tính cộng. Đối với các dạng toán như vậy các em nắm chưa thành thạo, tìm phép tính chưa phù hợp với lời giải, thiếu chính xác. Sang cuối đợt một, các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp. Đây là dạng toán có hai phép tính trở lên, câu hỏi của bài toán thường là phần gợi ý của lời giải thứ hai còn lời giải thứ nhất đòi hỏi các em phải tư duy để tìm. Vì vậy nếu lời giải thứ nhất sai dẫn đến cả bài giải đều sai. Tôi tiếp tục khảo sát chất lượng môn toán với 23 học sinh của lớp 3D, qua một số đề toán với kiến thức tổng hợp. Kết quả điểm của bài kiểm tra đều đạt theo yêu cầu song điều làm tôi băn khoăn, lo lắng là phần bài tập giải toán có lời văn tỉ lệ các học sinh làm được bài rất thấp. Trong các tiết học Toán trên lớp đến phần “ giải toán có lời văn” đa số các em đều hoạt động cá nhân nên kĩ năng phân tích đề còn hạn chế, nhiều em còn lúng túng trong việc tìm vấn đề bài toán cho biết gì và yêu cầu cần giải quyết gì để tìm các bước giải.Vì vậy mà khiến các em luôn né tránh mỗi khi đến phần học và làm bài tập giải toán. Giáo viên giảng dạy cũng đã đổi mới phương pháp nhưng hiệu quả đem lại chưa cao. Bên cạnh đó, nhận thức một số phụ huynh còn hạn chế, chưa quan tâm đến việc học tập của con cái, giao phó tất cả cho giáo viên. Trình độ học vấn của đa số phụ huynh về phần giải toán chưa cao nên gặp khó khăn trong việc dạy con học ở nhà, nhất là môn toán nói chung và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng.
I. phÇn MỞ ĐẦU 1.1.Lí do chọn đề tài. Nhân loại đang bước vào thế kỉ XXI, là thế kỉ có nhiều biến đổi to lớn về khoa học- công nghệ, bước tiến nhảy vọt về kinh tế. Tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Phát huy trí tuệ, sức mạnh của người Việt Nam: coi phát triển GD-ĐT và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đáp ứng yêu cầu quốc sách của Đảng, ngành GD đã thực sự đổi mới trên mọi mặt, đặc biệt đổi mới về phương pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS. Đất nước ta đang bước vào kĩ nguyên mới: “Kĩ nguyên hội nhập kinh tế quốc tế” đầu tư vào chất xám sẽ là đầu tư có hiệu quả nhất, đòi hỏi con người phải năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động. Những năm gần đây, Bộ GD-ĐT đã và đang thực hiện phong trào: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà chúng ta rất cần những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra. Vậy làm thế nào để có được những con người lao động “hiện đại” này ? Chắc hẳn chỉ có giáo dục đào tạo mới trả lời được điều này. Vì vậy, Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã xác định vai trò giáo dục đào tạo là “Quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội”.Tuy nhiên, để đạt được điều đó nền giáo dục Việt Nam phải có một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh và một cơ sở vững chắc là bậc giáo dục Tiểu học. Bậc tiểu học là bậc học đặc biệt quan trọng - bậc học đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên xã hội, phát triển các năng lực nhận thức. Trong chương trình môn học ở tiểu học, môn toán là môn học đóng vai trò quan trọng.Toán học là môn thể thao của trí tuệ, giúp ta trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, rèn luyện tính thông minh, sáng tạo.... điều này thể hiện rõ nét qua qua việc giải toán. Giải toán là thước đo của việc nắm lý thuyết , trình độ tư duy, tính linh hoạt sáng tạo của học sinh. Giải toán có lời văn giúp học sinh tư duy một cách tích cực, linh hoạt để huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình huống khác nhau, cũng có trường hợp yêu cầu học sinh phải biết phát hiện những dự kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong một chừng mực nào đó phải biết suy nghĩ sáng tạo. Vì thế có thể coi giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ học sinh, tiếp tục giúp các em phát triển tư duy, rèn tính cẩn thận chính xác, kiên trì vượt khó chủ động sáng tạo để thực hiện tốt 3 nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Kĩ năng giải toán có lời văn đã được các em làm quen ngay từ khi mới vào lớp một, từ đó hình thành khả năng tính toán cơ bản cho các lớp sau. Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy. Rèn luyện phương pháp suy luận, kỹ năng tính toán và những phẩm chất của người lao động mới. Vì khi giải bài tập toán là một hoạt động bao gồm những thao tác mà không thể thiếu đó là: xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái cần tìm, thực hiện phân tích thích hợp, rút ra những kết luận và trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Giải quyết được một vấn đề đặt ra của một bài toán đòi hỏi tư duy phải huy động tÝch cực. Bởi hình thành kỹ năng giải toán khó h¬n nhiều so với kỹ năng tính, vì bài toán là kết hợp nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu giải rồi áp dụng mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh, đòi hỏi biết tính đúng, tính nhanh, khuyến khích những học sinh có cách giải khoa học, ngắn gọn, chính xác. Dạy học giải toán giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp rồi rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định. Ở lớp 3, ngoài kiến thức tiếp nối các dạng toán đã học ở lớp 1, lớp 2. Các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp có từ hai phép tính trở lên. Mỗi bước tính thể hiện một tình huống nêu lên mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Kết quả phép tính ở bước thứ nhất sẽ là một thành phần của phép tính ở bước giải thứ hai. Học sinh phải biết lựa chọn phép tính thích hợp với lời giải đặc biệt các phép tính có lời giải còn ẩn. Qua thực tế khi dạy giải toán có lời văn ở lớp tôi một số em vẫn còn hạn chế. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất băn khoăn, trăn trở muốn tìm ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong phần giải toán có lời văn nhằm nâng cao trình độ nhận thức, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển Giáo dục trong giai đoạn hiện nay của ngành và của nhà trường. Từ những lí do thực tế trên, tôi mạnh dạn chọn đi sâu nghiên cứu đề tài kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3”. 1.2 Điểm mới của đề tài. Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3” là một đề tài đã được rất nhiều tài liệu nói đến nhưng riêng ở Trường TH tôi đang công tác thì đến nay chưa có giáo viên nào nghiên cứu để viết thành đề tài kinh nghiệm. Bởi vậy, tôi đã mạnh dạn chọn trình bày đề tài nghiên cứu này. Điểm mới trong đề tài là tôi đã thực hiện vận dụng điểm mới của mô hình lớp học VNEN về đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc thay đổi không gian lớp học, xây dựng nhóm học tập thân thiện, tạo cơ hội cho học sinh có sự trao đổi, tự tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo trên cơ sở giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, điều hành. 1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Vì điều kiện thời gian và sự phân công công tác nên phạm vi của đề tài chỉ nghiên cứu trong lớp học tôi đang chủ nhiệm (lớp 3D). 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của chất lượng giải toán có lời văn lớp 3D. Qua khảo sát vào đầu năm học, ở lớp 3 với giai đoạn này các em đang tiếp nối kiến thức đã học từ lớp 1, lớp 2. Các bài tập thực hành là các bài toán đơn chỉ có một lời giải, một phép tính và đáp số.Với các dạng toán giải: Bài toán về nhiều hơn; bài toán về ít hơn. Tuy vậy, cũng đề toán dùng từ “nhiều hơn” nhưng phải thực hiện phép tính trừ; với đề toán dùng từ “ít hơn” lại thực hiện bằng phép tính cộng. Đối với các dạng toán như vậy các em nắm chưa thành thạo, tìm phép tính chưa phù hợp với lời giải, thiếu chính xác. Sang cuối đợt một, các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp. Đây là dạng toán có hai phép tính trở lên, câu hỏi của bài toán thường là phần gợi ý của lời giải thứ hai còn lời giải thứ nhất đòi hỏi các em phải tư duy để tìm. Vì vậy nếu lời giải thứ nhất sai dẫn đến cả bài giải đều sai. Tôi tiếp tục khảo sát chất lượng môn toán với 23 học sinh của lớp 3D, qua một số đề toán với kiến thức tổng hợp. Kết quả điểm của bài kiểm tra đều đạt theo yêu cầu song điều làm tôi băn khoăn, lo lắng là phần bài tập giải toán có lời văn tỉ lệ các học sinh làm được bài rất thấp. Trong các tiết học Toán trên lớp đến phần “ giải toán có lời văn” đa số các em đều hoạt động cá nhân nên kĩ năng phân tích đề còn hạn chế, nhiều em còn lúng túng trong việc tìm vấn đề bài toán cho biết gì và yêu cầu cần giải quyết gì để tìm các bước giải.Vì vậy mà khiến các em luôn né tránh mỗi khi đến phần học và làm bài tập giải toán. Giáo viên giảng dạy cũng đã đổi mới phương pháp nhưng hiệu quả đem lại chưa cao. Bên cạnh đó, nhận thức một số phụ huynh còn hạn chế, chưa quan tâm đến việc học tập của con cái, giao phó tất cả cho giáo viên. Trình độ học vấn của đa số phụ huynh về phần giải toán chưa cao nên gặp khó khăn trong việc dạy con học ở nhà, nhất là môn toán nói chung và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng. Sau đó, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng giải toán có lời văn của lớp cụ thể là: Qua thực tế khảo sát, kết quả điều tra: Lớp Chất lượng Tóm tắt bài toán Phân tích bài toán Giải bài toán Số lượng % Số lượng % Số lượng % 3D Giỏi 2 8.7 2 8,7 2 8,7 Khá 8 34,8 6 26,1 6 26,1 T.bình 7 30,4 10 43,5 10 43,5 Chưa đạt 6 26,1 5 21,7 5 21,7 Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát cho thấy: Tỉ lệ học sinh nắm và giải được bài toán còn thấp, tỉ lệ học sinh phân tích bài toán và chưa giải đúng còn nhiều. Trong quá trình dạy học trên lớp tôi nhận thấy những hạn chế của học sinh trong qua trình học và làm bài là: Ngôn ngữ toán học còn hạn chế. Khả năng nhận dạng các dạng toán của học sinh còn lúng túng, chưa tìm đúng lời giải thứ nhất, dẫn tới làm sai bài. Chưa chịu khó học tập, chưa mạnh dạn nêu ra những thắc mắc với thầy cô giáo. Luôn có thái độ che dấu những điều chưa biết của mình. Ý thức học tập chưa cao, tinh thần trao đổi với bạn bè, thầy cô còn hạn chế. Xuất phát từ thực trạng đó, là một giáo viên đứng lớp tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và tìm một số biện pháp nhằm “Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi dạy giải toán có lời văn lớp 3”. 2.2. Các biện pháp. 2.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng nhóm học tập thân thiện. Hình thức tổ chức dạy học này có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Tất cả học sinh đều được làm việc và thực hành luyện tập, biết giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết được những vấn đề khó và tìm ra cái mới trong bài học. Tạo thái độ học tập tích cực, đặc biệt bước đầu giúp các em làm quen với phong cách làm việc hợp tác, đề xuất với giáo viên những vấn đề vướng mắc cần giải đáp. Giáo viên lập các nhóm học tập dựa vào năng lực học của từng học sinh, sao cho mỗi nhóm đều có học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu tham gia số lượng từ 4 - 6 em. Hình thức hoạt động: Lần đầu giáo viên tổ chức, hướng dẫn các em cách thức sinh hoạt, cách thức phân tích bài toán, cách thức kiểm tra các thành viên trong nhóm để nhóm tự kiểm tra, thảo luận, giúp nhau trong việc giải toán như: phân tích bài toán; tìm Các bước giải; lựa chọn phép tính phù hợp; sửa chữa sai sót cho nhau trong quá trình giải toán. Giáo viên“Tập huấn” cho trưởng nhóm về cách điều khiển các hoạt động của nhóm (như một giáo viên). Nhóm trưởng biết cách phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm sao cho các bạn đều được tham gia, đều phải thể hiện. Biết thay đổi linh hoạt vai trò của các thành viên trong nhóm: là thư kí; là đại diện báo cáo kết quả. Biết động viên khích lệ bạn còn chưa thực nhanh tay, nhanh mắt trong nhóm, tạo tính mạnh dạn cho các em. Ví dụ: Cho bài toán “Một cửa hàng buổi sáng bán được 62 kg gạo, buổi sáng bán được nhiều hơn buổi chiều là 18 kg gạo. Hỏi cả hai buổi cửa hàng đó bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”. Bạn trưởng nhóm điều khiển nhóm mình như giáo viên đã hướng dẫn. + Cho các bạn đọc đề toán, nêu dự kiện của bài toán: bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?. + Tóm tắt bài toán: các bạn tự trao đổi để tìm xem tóm tắt bằng hình thức nào cho phù hợp( sơ đồ hay ngôn ngữ...) + Thảo luận lập kế hoạch giải, cuối cùng là thống nhất cách thực hiện quá trình giải. Các thành viên trong nhóm tự đưa ra câu hỏi và trả lời cho thích hợp. Như vậy, tất cả các bạn trong nhóm đều phải thực hiện tất cả các bước theo trình tự. Từ đó nhắc nhở các bạn trong bài toán đã có dùng từ “nhiều hơn” nhưng không phải hễ cứ thấy “nhiều hơn” là làm tính cộng, tránh quan niệm sai lầm đó. Tiếp theo bạn nhóm trưởng yêu cầu các bạn tự giải bài vào vở. Huy động kết quả ở trong nhóm bằng việc lần lượt các bạn đọc bài giải của mình để cả nhóm đối chiếu, các bạn khác được nhiều lần kiểm tra lại câu lời giải, phép tính và kết quả, khuyến khích các bạn có cách giải hay hơn ( lời giải khác), sau đó báo cáo với giáo viên về kết quả sinh hoạt nhóm, đề xuất ý kiến cần thiết. Việc học nhóm đã giúp các em tự tin hơn bởi vì : “Học thầy không tày học bạn”. Qua học nhóm đã giúp các em không bị gò bó, nâng cao kỹ năng giải toán hơn - tạo cho các em có niềmvui trong học toán. Ích lợi của biện pháp này là giáo viên đỡ tốn thời gian mà vẫn phát hiện những mặt hạn chế của học sinh để kịp thời uốn nắn, sữa chữa cho các em. Học sinh gắn bó với nhau hơn, mạnh dạn trong giao tiếp, hình thành thói quen và kỹ năng phân tích, kỹ năng giải toán, điều quan trọng là tạo cơ hội để các em tự nói lên những suy nghĩ của mình tạo tính tích cực, mạnh dạn cho các em, từ đó các em có niềm say mê, hứng thú khi học toán hơn. 2.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường, không gian lớp học. Xây dựng phòng học và tổ chức không gian lớp học mang tính thẫm mĩ, sư phạm, các em sẽ tự giác tích cực hơn khi được sống trong môi trường thân thiện. Học sinh tiểu học với tâm lý lứa tuổi hiếu động, thích sự thay đổi nên thường có cảm giác bị áp lực học tập trong một môi trường: Thầy giảng trò nghe; thầy đọc trò chép. Trong những năm học gần đây, tất cả các trường đang thi đua xây dựng mô hình : “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Hình thành môi trường bạn hữu thân thiện, học sinh biết giúp đỡ nhau, yêu quý trường lớp, giữ gìn môi trường xanh-sạch-đẹp. Lớp học là nơi các em học tập cũng là nơi các em tự do thể hiện sự sáng tạo của mình qua việc sắp xếp các dụng cụ học tập, sản phẩm do chính bàn tay các em cũng như cha mẹ hay thầy, cô giáo tạo ra. Từ đó giúp các em hào hứng hơn trong mỗi hoạt động học đường. Các em sẽ tự giác và tích cực học tập hơn khi được sống trong môi trường thân thiện. Đổi mới không gian lớp học, xây dựng không gian lớp học thân thiện bằng cách xây dựng các góc học tập, góc thư viện, góc môi trường, góc hỗ trợ các hoạt động giáo dục.......phù hợp với khoảng không gian lớp học, thuận tiện trong sử dụng. Đối với môn toán, góc học tập là nơi trưng bày trang thiết bị đồ dùng dạy học, các sản phẩm học tập của học sinh. Trong góc đó là những đồ vật, thiết bị gần gũi với các em như êke, compa, những mô hình, những vật thật và cả những thiết bị, đồ dùng do các em tự làm... Chính những đồ vật đó đã giúp học sinh lĩnh hội được những kiến thức trừu tượng trong hoạt động học tập. Khi nhìn những đồ dùng học tập đó, học sinh thấy tái hiện lại quá trình sử dụng đồ dùng học tập, thấy chúng trở nên thân thiện thú vị hơn vì đấy chính là những đồ vật đã đồng hành trong việc giúp các em học tập. Thay đổi không gian lớp học ở đây còn thể hiện ở việc thay đổi tư thế ngồi học. Lớp học bây giờ được thay thế bằng các nhóm học tập. Bàn ghế được sắp xếp theo hình chữ U, các nhóm hoặc các học sinh trong nhóm được ngồi đối diện nhau để thuận tiện trong việc học nhóm, tạo hứng khởi cho các em trong học tập. Vị trí ngồi trong nhóm cũng được thay đổi thường xuyên theo từng tiết học, buổi học. Không gian này có thể thay đổi từng tuần tùy theo đặc trưng của từng môn học và để đảm bảo cho học sinh được thay đổi vị trí, tránh trường hợp ngồi lệch so với bảng trong thời gian dài. 2.2.3. Biện pháp 3: Đổi mới phương pháp dạy học. Trong dạy học “Không có phương pháp nào là vạn năng” song người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp thích hợp cho từng tiết học giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, sáng tạo tạo nên tiết học sinh động, giải quyết được vấn đề một cách hợp lý, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Có thể cùng một bài toán nhưng có thầy dạy thì học sinh dễ hiểu, nắm được mạch bài, nhưng có thầy dạy thì học sinh hiểu rất ít, đó chính là khác nhau giữa phương pháp dạy học giữa hai người thầy. Để nâng cao hiệu quả dạy học, người thầy phải tìm tòi, lựa chọn phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh mình. Thông thường khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán giáo viên cho học sinh đọc đề, phân tích bài toán và gợi ý cách giải, sau đó cho học sinh giải bài vào vở. Để học sinh chủ động trong việc tìm cách giải bài toán, giáo viên cho học sinh đọc đề toán sau đó giao việc cho học sinh thảo luận theo nhóm để phân tích bài toán, tìm cách giải bài toán và trình bày ý kiến trước lớp, giáo viên cho các nhóm bổ sung và thống nhất cách giải. Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán: “Thùng thứ nhất đựng 18l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”. Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, giao nhiệm vụ cho các nhóm thảo luận phân tích bài toán, học sinh trình bày ý kiến phân tích của nhóm theo hình thức đàm thoại: - Bài toán cho biết gì? (thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn 6 lít dầu). - Bài toán hỏi gì? (cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu). - Các nhóm tự thảo luận tách bài toán đã cho thành hai bài toán đơn bằng cách: + Đặt câu hỏi phụ để lập bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó. + Sau đó lập bài toán đơn thứ hai bằng cách sử dụng kết quả của phép tính ở bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó. Dựa vào phân tích bài toán như trên học sinh tiếp tục trình bày cách giải bài toán: Bài giải: Thùng thứ hai đựng được : 18 + 6 = 24 ( l). Cả hai thùng đựng được : 18 + 24 = 42 ( l). Đáp số: 42l dầu. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên cho các nhóm nhận xét cách trình bày lời giải trong mỗi phép tính để chọn lời văn chính xác cho mỗi phép tính của bài giải. Giáo viên có thể cho học sinh trình bày nhiều lời giải khác và chú ý lời văn trong mỗi cách nêu lời giải để hình thành kỹ năng diễn đạt các bài toán có lời văn. Đối với những bài toán khó giáo viên cần giành thời gian nhiều hơn hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ bài toán. Gợi mở để học sinh hiểu đề bài và gợi ý cho học sinh khá giỏi làm không nên bắt buộc học sinh yếu làm. Để giúp học sinh học tốt nâng cao chất lượng giải toán có lời văn, giáo viên không nên tự xem vốn kiến thức của mình là thoả mãn, giáo viên phải phát huy vai trò tự học, tự rèn học những phương pháp giải toán, thường xuyên giải bài toán khó, đọc tạp chí tiểu học, các chuyên đề bồi dưỡng học sinh lớp 3 nhằm trang bị cho mình những kiến thức toán học bổ ích. Tham gia các lớp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình tổ chức điều khiển quá trình học tập của học sinh giáo viên đưa ra những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học với nhiều loại câu hỏi khác nhau. Đó là những câu hỏi về hiện tượng, sự kiện, câu hỏi đòi hỏi nhớ lại, đòi hỏi nhận thức cao hơn và biết sắp xếp chúng từ dễ đến khó đặc biệt là trong các tiết luyện tập thực hành. Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán “Một hình vuông có chu vi 2m 4dm. Hỏi hình vuông đó có diện tích bằng bao nhiêu xăng – ti – mét – vuông?” - Đề toán này nhằm nâng cao một bước năng lực của học sinh trong hoạt động giải toán. - Bằng hệ thống câu hỏi phát vấn dẫn dắt học sinh đến với đề toán. Bài toán cho biết gì? (Câu hỏi tìm dữ kiện). Bài toán yêu cầu ta phải làm gì? (Tìm ẩn số). Học sinh muốn giải bài toán này cần phải chuyển hai đơn vị đo về một đơn vị đo nhỏ hơn, giáo viên phải đặt câu hỏi: Hai đơn vị đo liền nhau hơn kém nhau bao nhiêu lần? (Đòi hỏi học sinh nhớ lại). Muốn tính chu vi hình vuông ta làm thế nào? (Câu hỏi đòi hỏi học sinh suy luận). Giáo viên cần chọn những bài toán có nội dung thực tế để giúp học sinh nắm vững kiến thức và tăng cường khả năng vận dụng kiến thức cho học sinh. 2.2.4 Biện pháp 4: Dạy học theo hướng phân hóa. Trong một lớp học thường có tất cả 4 đối tương (giỏi, khá, trung bình, yếu) vì vậy đòi hỏi người giáo viên hết sức linh hoạt, sáng tạo để thiết kế bài dạy phù hợp với các đối tượng, tránh học sinh giỏi cảm thấy nhàm chán khi bài quá dễ, còn học sinh yếu lại thấy mệt mỏi, chán học khi bài quá khó, không thể làm được. Trong một tiết học chúng ta phải tạo cho tất cả các em hoạt động dù học sinh yếu hay giỏi bằng nhiều cách để lôi cuốn các em vào hoạt động học. Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán: Hình chữ nhật có chiều dài 12cm,chiều rộng 6cm. Hình vuông có cạnh là 9cm. a. Tính chu vi mỗi hình. So sánh chu vi hai hình đó. b. Tính diện tích mỗi hình. So sánh diện tích hai hình đó. Trước hết tôi cũng hướng dẫn các em phân tích bài toán theo các bướ
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_d.doc