Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số trường Mầm non Hoa Hồng học tốt môn Khám phá khoa học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số trường Mầm non Hoa Hồng học tốt môn Khám phá khoa học

Cơ sở lý luận

Trẻ mầm non vốn thích khám phá, ham hiểu biết thích tìm tói các sự vật hiện tượng xung quanh. Hoạt động khám phá khoa học thõa mãn nhu cầu phát triển đó của trẻ, qua hoạt động khám phá, trẻ có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, từ đó trẻ phát hiện và giải quyết vấn đề đơn giản theo nhiều cách khác nhau, trẻ có một số hiểu biết ban đầu về con người, sự vật hiện tượng xung quanh. Việc gây hứng thú cho trẻ hoạt động khám phá khoa học là hết sức cần thiết và quan trọng, quyết định đến cả quá trình trẻ tiếp thu bài tốt hay không. Thực tế hiện nay việc gây hứng thú cho trẻ trong các hoạt động khám phá khoa học ở trường mầm non còn hạn chế về hình thức, phương pháp và nội dung vào bài. Vì vậy khi vào bài trẻ không hứng thú tham gia hoạt động do vậy hoạt động chưa đạt kết quả cao. Khám phá khoa học là một trong những nội dung đóng vai trò hết sức quan trọng trong cung cấp những kiến thức, kỹ năng sống cho trẻ trước khi vào lớp 1.

Thực hiện mục tiêu “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” của chương trình Mầm non mới hiện nay. Mọi hoạt động đều hướng vào trẻ và trẻ hoạt động tích cực giáo viên chỉ giữ vai trò “trung gian”. Bản thân tôi là giáo viên mầm non trực tiếp giáo dục chăm sóc trẻ luôn tìm hiểu, nghiên cứu và đã tìm ra một số biện pháp để giúp trẻ 5-6 tuổi người đồng bào dân tộc thiểu số học tốt môn khám phá khoa học.

 

doc 18 trang hoathepmc36 28/02/2022 8701
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số trường Mầm non Hoa Hồng học tốt môn Khám phá khoa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU...2
1. Lý do chọn đề tài...........2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.......3
3. Đối tượng nghiên cứu3
4. Giới hạn của đề tài.....3
5. Phương pháp nghiên cứu...3
II. PHẦN NỘI DUNG ....4
1. Cơ sở lý luận..4
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.......4
3. Nội dung và hình thức của giải pháp.....7
a. Mục tiêu của biện pháp..7
b. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp..7
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:....18
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học: 18
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.....22
1. Kết luận:..22
2. Kiến nghị.....23
- Tài liệu tham khảo.24
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm thoại, thảo luận, trình bày những hiểu biết, suy nghĩ, giải thích một vấn đề nào đó trong cuộc sống như: Kể lại được sự việc, câu chuyện đã được nghe, được chứng kiến, hay tự mình nghĩ ra, sáng tạo ra. Trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của cô của những người xung quanh. Sau đó tập trình bày suy nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ tiếng Việt. Muốn phát triển ở trẻ kỹ năng, hiểu và nói được ngôn ngữ tiếng Việt theo cô. Bản thân tôi trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện, khám phá, đàm thoại, kể chuyện, đọc cho trẻ nghe, cho trẻ làm quen với chữ cái và thông qua các môn học khác, hoặc ở mọi lúc mọi nơi... Từ đó phát triển ngôn ngữ, vốn từ của trẻ ngày càng phong phú, đa dạng về câu từ và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, tư duy của trẻ.
Để trẻ tiếp thu bài tốt, điều quan trọng là trẻ phải thật sự thích thú với hoạt động, để có được điều đó giáo viên phải là người khéo léo, có năng lực tổ chức, có giọng truyền cảm, nhẹ nhàng, gây hứng thú cho trẻ hoạt động. 
Từ thực tế tiết dạy cho thấy hoạt động khám phá khoa học của các lớp còn tẻ nhạt, giáo viên còn nhiều hạn chế, lúng túng chưa biết cách dẫn dắt vào bài khiến giờ học không hấp dẫn, khô khan, trẻ không hứng thú tham gia vào hoạt động.
Là giáo viên chủ nhiệm lớp lá 1 trường Mầm non Hoa Hồng nhiều năm việc thường xuyên tiếp xúc với trẻ, tôi hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý cũng như khả năng, nhu cầu của trẻ về khả năng nhận thức thông qua các hoạt động theo từng chủ đề và việc tìm ra một số biện pháp giúp trẻ đồng bào học tốt môn khám phá khoa học, hòa nhập với trẻ người kinh là nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết đối với giáo viên mầm non. Trong quá trình tôi tham gia giảng dạy cũng như đi dự các tiết của giáo viên trong trường nhìn chung trong các tiết học trong lớp lượng kiến thức mà trẻ lĩnh hội được rất trừu tượng và chưa sâu sắc đến trẻ. Trẻ tiếp thu còn chậm, chưa thực sự gây hứng thú với trẻ. Đồ dùng đồ chơi cô chuẩn bị rất nhiều nhưng vẫn mang tính khô khan cứng nhắc và có phần gò bó đối với trẻ, hạn chế sự tò mò tự tìm hiểu sự phong phú muôn màu muôn vẻ về sự vật xung quanh trẻ.
Với tình hình thực tế của trẻ dân tộc thiểu số như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, không biết làm gì và làm như thế nào, bằng phương pháp gì? để giúp trẻ hiểu và học tốt hơn đối với môn khám phá khoa học, chính vì điều băn khoăn trăn trở ấy bản thân tôi đã tìm tòi nghiên cứu “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số trường mầm non Hoa Hồng học tốt môn Khám phá khoa học”. Nhằm giúp trẻ người dân tộc thiểu số ham thích được đến lớp và muốn học được tự mình khám phá trải nghiệm để trẻ tự tin trong cuộc sống và tích cực tham gia vào các hoạt động trong trường mầm non đạt kết quả tốt hơn. 
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
- Mục tiêu: 
Nhằm giúp trẻ tự tin, thoải mái phát triển khả năng quan sát, ghi nhớ, chú ý, phân tích, ttổng hợp. Trẻ được khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh có tác dụng giáo dục và phát triển các mặt: Ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ, thể chất, tình cảm-xã hộiQua đó giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và chính xác, không mang tính trừu tượng và khô khan.	
- Nhiệm vụ của đề tài: 
Nghiên cứu nhằm tìm ra một số biện pháp, giải pháp, từ đó giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học và giúp giáo viên có những định hướng phù hợp trong công tác chăm sóc cho trẻ mầm non ở độ tuổi 5- 6 tuổi sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần giúp trẻ học tốt môn Khám phá khoa học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số học tốt môn khám phá khoa học 
4. Giới hạn của đề tài
- Trẻ 5 - 6 tuổi lớp lá 1 trường Mầm non Hoa Hồng, xã Băng Adrênh, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk lăk
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018
5. Phương pháp nghiên cứu: 
- Phương pháp quan sát các hoạt động của trẻ.
- Phương pháp điều tra thực tế.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm
- Phương pháp kiểm tra đánh giá các hoạt động của trẻ.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Trẻ mầm non vốn thích khám phá, ham hiểu biết thích tìm tói các sự vật hiện tượng xung quanh. Hoạt động khám phá khoa học thõa mãn nhu cầu phát triển đó của trẻ, qua hoạt động khám phá, trẻ có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, từ đó trẻ phát hiện và giải quyết vấn đề đơn giản theo nhiều cách khác nhau, trẻ có một số hiểu biết ban đầu về con người, sự vật hiện tượng xung quanh. Việc gây hứng thú cho trẻ hoạt động khám phá khoa học là hết sức cần thiết và quan trọng, quyết định đến cả quá trình trẻ tiếp thu bài tốt hay không. Thực tế hiện nay việc gây hứng thú cho trẻ trong các hoạt động khám phá khoa học ở trường mầm non còn hạn chế về hình thức, phương pháp và nội dung vào bài. Vì vậy khi vào bài trẻ không hứng thú tham gia hoạt động do vậy hoạt động chưa đạt kết quả cao. Khám phá khoa học là một trong những nội dung đóng vai trò hết sức quan trọng trong cung cấp những kiến thức, kỹ năng sống cho trẻ trước khi vào lớp 1.
Thực hiện mục tiêu “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” của chương trình Mầm non mới hiện nay. Mọi hoạt động đều hướng vào trẻ và trẻ hoạt động tích cực giáo viên chỉ giữ vai trò “trung gian”. Bản thân tôi là giáo viên mầm non trực tiếp giáo dục chăm sóc trẻ luôn tìm hiểu, nghiên cứu và đã tìm ra một số biện pháp để giúp trẻ 5-6 tuổi người đồng bào dân tộc thiểu số học tốt môn khám phá khoa học.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường tôi được phân công chủ nhiệm lớp lá 1 với tổng số học sinh 40. trong đó: Nữ 18, DT: 32, Nữ DT: 16
Giáo viên chủ nhiệm: 2 giáo viên
Trình độ chuyên môn: Đại học
Đầu năm học khi nhận học sinh vào lớp, bản thân tôi đã nhận định rằng có rất nhiều khó khăn trong việc chăm sóc trẻ. Trong quá trình giảng dạy tôi thấy tỉ lệ trẻ có khả năng, quan sát, so sánh, phân loại, giải quyết vấn đề, những hiểu biết ban đầu về con người, sự vật, hiện tượng xung quanh còn thấp, hạn chế. Hơn nữa phụ huynh không quan tâm đến con em mình, cứ đến ngày mùa lại cho con theo mẹ ra đồng lên nương, lên rẫy. Bởi vậy lớp lá 1 lúc ban đầu khảo sát chất lượng đạt kết quả như sau: 
Nội dung khảo sát
Trước khi thực hiện kết quả đạt
- Trẻ nhận biết và phát âm đúng tên gọi
25/40 trẻ = 62,5 %
- Khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý.
20/40 trẻ = 50%
- Những hiểu biết ban đầu về con người, sự vật, hiện tượng xung .
22/40 trẻ = 55%
- Trẻ thích khám phá các sự vật, hiện tượng xung quanh
18/40 trẻ = 45%
- Giải thích được mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả đơn giản trong cuộc sống hằng ngày 
17/40 trẻ = 42,5%
Từ thực trạng trên bản thân tôi gặp những khó khăn và thuận lợi sau: 
- Thuận lợi: 
Lớp lá 1 thuộc phân hiệu buôn K62, lớp có tương đối đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ cho việc dạy và học và các hoạt động khác.
	Được nhà trường quan tâm phân công hai cô đều là giáo viên trẻ, cả hai cô đều có phẩm chất nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn tiếp thu nhanh với những đổi mới trong chương trình giáo dục mầm non mới.
- Khó khăn: 
Dân cư sống không tập chung, 100% là đồng bào dân tộc thiểu số, việc bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ, do vậy làm ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Địa hình phức tạp việc đi đến lớp học của trẻ mầm non còn gặp nhiều khó khăn. Mặt bằng kinh tế của người dân còn thấp, chủ yếu làm ruộng, làm nương. Một số phụ huynh thực sự chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, ngay từ nhỏ không cho trẻ đến lớp sớm để trẻ phát âm Tiếng Việt rõ ràng hơn. Trang thiết bị và một số dụng cụ khoa học của trường còn hạn chế như (kính lúp, máy ảnh)
- Nguyên nhân chủ quan:
Khi thực hiện đề tài để trẻ tiếp thu và tham gia khám phá một cách tích cực thì đòi hỏi giáo viên phải luôn tìm tòi học hỏi nâng cao kiến thức vì vậy mà giáo viên có thêm nhiều biện pháp giúp cho trẻ học tốt hơn.
	Giáo viên có trình độ chuyên môn, được đào tạo qua trường lớp, nắm vững phương pháp, có thêm nhiều kinh nghiệm hơn.
	 Trẻ mạnh dạn, tự tin và tự mình khám phá ra kết quả.
	 Để tổ chức tốt cho trẻ giáo viên phải biết cả tiếng Êđê để có thế hiểu được trẻ muốn gì cần gì vì vậy còn gặp khó khăn trong việc cho trẻ tiếp xúc với tiếng việt.
Cơ sở vật chất của trường đảm bảo đầy đủ, có tivi đầu đĩa phục vụ cho việc giảng dạy.
	 80% trẻ là người dân tộc thiểu số nên việc nói tiếng việt chưa thành thạo
* Nguyên nhân khách quan:
Giáo viên nắm được phương pháp, có nhiều kinh nghiệm hơn tuy nhiên sự sáng tạo và linh hoạt trong quá trình tổ chức chưa cao vì vậy mà chất lượng và sự sáng tạo trong các hoạt động chưa hiệu quả vì thế chưa lôi cuốn và thu hút được trẻ.
	 Giáo viên tổ chức hoạt động còn cứng chưa có nhiều biện pháp mới lạ nên chưa thu hút được trẻ, trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn và tự tin tham gia hoạt động.
	 Giáo viên chưa thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với tiếng Việt (Trong các hoạt động mọi lúc mọi nơi) mà đa phần trẻ được tiếp xúc với Tiếng Việt thông qua các môn học có các từ khó để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ.
	Chính vì nhìn thấy những điều bất cập trong việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, bản thân tôi đã mạnh dạn tìm tòi, học hỏi để tìm cho mình những biện pháp có thể áp dụng trong quá trình thực hiện nhằm giúp trẻ học tốt hơn.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của biện pháp
Những giải pháp, biện pháp nêu ra trong đề tài nhằm mục tiêu giúp trẻ tham gia vào các hoạt động với tâm thế phấn khởi, vui tươi, thích thú, phát triển các khả năng của trẻ như: quan sát, so sánh, ghi nhớ, chú ý
Phát triển toàn diện 5 mặt phát triển cho trẻ nhằm hoàn thiện nhân cách và kỹ năng sống cho trẻ.
Thúc đẩy quá trình học tập của trẻ ở trường lớp ngày càng đạt kết quả tốt hơn. Bởi vì khi trẻ tham gia vào tất cả các hoạt động thì bắt buộc trẻ phải tư duy, nhận biết, ghi nhớ và đó cũng là tiền đề để trẻ tiếp tục phát triển ở phổ thông sau này. Giáo dục trẻ sống gần gũi với thế giới xung quanh trẻ.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Từ việc khảo sát chất lượng đầu năm của trẻ lớp lá 1 phân hiệu Buôn K62 trường Mầm non Hoa Hồng tôi đã tìm ra những biện pháp nhằm giúp trẻ dân tộc thiểu số học tốt môn khám phá khoa học. 
* Biện pháp 1: Chuẩn bị các điều kiện và phương tiện cho trẻ làm quen với trò chơi hoạt động khám phá
- Môi trường trong và ngoài lớp:
 Môi trường là yếu tố trực tiếp tác động hằng ngày đến trẻ. Môi trường trang trí lớp, môi trường học tập, môi trường vui chơicó vai trò quan trọng đến giáo dục trẻ. Đối với việc trang trí môi trường lớp học tôi luôn quan tâm hàng đầu. Ở mỗi chủ đề tôi luôn dành thời gian nghiên cứu thiết kế môi trường lớp học sao cho phù hợp với chủ đề mà trẻ khám phá, tìm hiểu về các sự vật thông qua hình ảnh trang trí đó.
Bên cạnh đầu tư trang trí phù hợp với chủ đề, bản thân cũng chú trọng đến việc làm đồ dùng đồ chơi tự làm ở các góc và sắp xếp đồ dùng sao cho thu hút trẻ, vừa tạo cho trẻ khám phá, trải nghiệm thông qua hoat động góc.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề: “Thế giới thực vật’ Ở góc thiên nhiên là góc dành riêng cho trẻ để khám phá cây xanh. Ở góc này tôi trồng rất nhiều cây xanh. Tôi bố trí sẵn bình nước tưới, chăm sóc cây để khi trẻ tham gia ở hoạt động góc để trẻ vừa chăm sóc cây và khám phá các loại cây. Trong quá trình chăm sóc ở góc thiên nhiên, trẻ được hình thành kỹ năng, kỹ xảo lao động, được bồi dưỡng phẩm chất yêu lao động, yêu thiên nhiên, có ý thức trách nhiệm trong công việc được giao. Thông qua hoạt động vui chơi ngoài trời giáo viên cho trẻ khám phá về một số loại cây như: cây ăn quả; cây lấy gỗ và cho bóng mát, cây ăn rau, cây làm thuốc để chữa bệnh. Giáo viên cung cấp thêm kiến thức cho trẻ ăn rau nhiều sẽ cung cấp Vitamin cho cơ thể và giúp cho da dẻ hồng hào. Tuy công dụng khác nhau nhưng quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng tương đối giống nhau.
- Môi trường trong lớp:
 Ngoài những đồ dùng đồ chơi nhà trường cấp thì bản thân tôi tự tìm tòi những đồ dùng đồ chơi và tranh ảnh sinh động và phù hợp với chủ đề phục vụ cho hoạt động dạy học. Để có những đồ dùng đồ chơi tự tạo đẹp mắt và sáng tạo thân thiện và hấp dẫn tôi tận dụng những nguyên vật liệu thiên nhiên như các loại lá, cánh hoa, củ, quả, hạt cát, vỏ trứng, vỏ hến, vỏ ốcđể sử dụng làm sản phẩm tạo hình hay làm một số đồ chơi phù hợp với chủ đề. Tôi tổ chức cho trẻ thành các nhóm để tạo ra sản phẩm từ đó hỏi trẻ đã tạo được gì, trẻ hứng thú kể và có những biểu tượng về đối tượng được khám phá.
 Với những đồ dùng đồ chơi nhà trường đầu tư và bản thân tự làm đã sử dụng khai thác rất hiệu quả vào trong các tiết dạy và hoạt động khác trong ngày điều đó cho thấy trẻ rất hứng thú học.
* Biện pháp 2: Thường xuyên trau dồi sự hiểu biết của trẻ, kích thích tính tò mò của trẻ.
Việc đưa trẻ vào với môi trường xung quanh hay nói rõ hơn là trẻ khám phá khoa học, điều đầu tiên mà tôi quan tâm là lượng kiến thức của trẻ có thực sự phù hợp và lĩnh hội các chủ điểm hay không. Hơn nữa, nếu trẻ đã có lượng kiến thức nhất định rồi thì việc khám phá sẽ dễ dàng hơn và có ý nghĩa, hiệu quả hơn rất nhiều bên cạnh đó phát triển được tư duy cho trẻ. 
Ví dụ: Khi đàm thoại về các mùa trong năm, cô kể cho trẻ nghe về mùa xuân và mùa hè. Sau đó cô hỏi trẻ còn mùa nào trong năm mà cô chưa kể để phát triển thêm tư duy, trí nhớ của trẻ và trẻ sẽ dùng lời nói để kể lại những gì mà trẻ biết.
Khi chúng ta làm một việc gì, tìm hiểu hay khám phá một điều gì trong mỗi chúng ta đều phải có một ít hiểu biết nhất định về điều đó để có thể đặt ra câu hỏi “Tại sao”,...và tìm cách giải quyết chúng. Trẻ nhỏ cũng vậy, trẻ cũng có cách nghĩ riêng của trẻ có điều khả năng thu thập thông tin của trẻ còn hạn chế và khả năng phân tích tổng hợp của trẻ hầu như chưa chính xác vì vậy trẻ gặp khó khăn trong bất cứ vấn đề nào trẻ muốn tìm hiểu. 
Dựa vào những điều trên nên tôi chọn biện pháp thường xuyên trau dồi sự hiểu biết của trẻ, kích thích tính tò mò của trẻ là vấn đề mấu chốt trong đề tài này. Trẻ đến lớp được cô giáo truyền đạt kiến thức ở mọi lúc mọi nơi, bản thân tôi khi lên lớp luôn cố gắng thu thập những điều mới lạ đối với trẻ từ đó tạo cho trẻ có sự quan tâm và muốn tìm hiểu,
 Ví dụ: Với hoạt động khám phá về con Cua sau khi trẻ đã tìm hiểu được đặc điểm của con cua có hai càng và tám chân, tôi đặt câu hỏi gợi mở: Các con có biết con cua đi như thế nào không? để trẻ trả lời. Như vậy không những trẻ biết được đặc điểm của con cua mà còn biết môi trường sống của chúng, cách vận động, các bộ phận cơ thể ra sao. Khi đã nắm rõ đặc điểm, trẻ quan sát kỹ hơn từ đó so sánh rất rõ ràng và phân loại cũng rất tốt.
 Thường xuyên trò chuyện và dạy cho trẻ cách quan sát, khám phá sự vật một cách khoa học và logic, rèn cho trẻ khả năng đặt câu hỏi và tìm ra câu trả lời. Sử dụng tranh ảnh, mô hình có kích thước, chất liệu khác nhau để tổ chức cho trẻ xem theo nhóm hoặc cá nhân, khi xem giáo viên có thể trò chuyện với trẻ về nội dung của tranh ảnh, mô hình hoặc có thể giao nhiệm vụ cho trẻ để trẻ nói được các đối tượng được quan sát.
Ví dụ: Cho trẻ xem tranh gà mái đang ấp trứng và đặt ra các câu hỏi: Con gà mái đang làm gì?, Gà mái ấp trứng như thế nào?, Gà mái ấp trứng để làm gì?...
* Biện pháp 3: Sử dụng một số trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ hoạt động và xây dựng môi trường cho trẻ khám phá
Đối với trẻ mầm non thì việc “Học mà chơi - chơi mà học” sẽ giúp trẻ tiếp thu những kiến thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất. Sau thời gian trò chuyện, đàm thoại với cô trẻ được hoạt động, được tham gia vào các trò chơi hứng thú. Qua đó, trẻ không chỉ ngồi nghe cô nói và trả lời các câu hỏi của cô mà trẻ còn có cơ hội để bộc lộ các hiểu biết của mình thông qua các trò chơi. 	Ngoài ra trò chơi còn có tác dụng củng cố, bổ sung và phát triển thêm các tri thức mà trẻ vừa lĩnh hội, tái tạo lại biểu tượng đã học thông qua những hoạt động thực tiễn. Do đó việc tổ chức cho trẻ tham gia vào các trò chơi củng cố trong giờ hoạt động khám phá là rất quan trọng. Trò chơi càng phong phú đa dạng bao nhiêu thì các tri thức trẻ lĩnh hội càng sâu sắc và trẻ càng nhớ lâu bấy nhiêu.
 Trò chơi vận động: Cho trẻ chơi: Gieo hạt nảy mầm, từ đó trẻ hứng thú chơi và hình thành cho trẻ biết được quá trình phát triển của cây. Hoặc sử dụng trò chơi: Trời nắng, trời mưa, mèo đuổi chuột. Dùng để gây hứng thú hoặc chơi củng cố, tạo sự hứng thú cho trẻ, trẻ được chơi được giải tỏa căng thẳng.
Trẻ mẫu giáo chủ yếu là tư duy trực quan hình tượng, với trẻ thì những gì mới lạ đẹp mắt hấp dẫn là gây được sự chú ý của trẻ. Nhưng trong môn học này không phải cứ đưa trẻ đi ra ngoài và cho trẻ tự do khám phá là có hiệu quả. Bản thân tôi phải tìm những địa điểm, đề tài phù hợp với khả năng của trẻ, phù hợp với vốn hiểu biết của trẻ và gần gũi với trẻ. Cho trẻ quan sát những đối tượng tùy vào khả năng của trẻ, cho trẻ làm quen với những sự vật hiện tượng đơn giản và dễ hiểu
Ví dụ: Góc học tập cho trẻ xem hình ảnh, vẽ, nặn những gì mà trẻ đã học được, dạy cho trẻ cách làm một cơn mưa từ những xoa nước nhỏ.
Góc xây dựng cho trẻ xây vườn trường, sở thú,... Để từ đó trẻ có thể nhớ lại kiến thức hay làm tăng tính tò mò của trẻ, giúp trẻ có hứng thú trong buổi học ngoài trời hơn. Mặt khác các hệ thống câu hỏi khi đặt ra phải phù hợp với học sinh đẻ trẻ có thể trả lời một cách lưu loát khi cô đặt câu hỏi, không nên làm cho trẻ chán nản vì trẻ dân tộc thiểu số khi trả lời được câu hỏi của cô thì trẻ rất vui sướng. Bởi vậy trong tiết dạy bản thân tôi vừa cho trẻ khám phá vừa phân tích cho trẻ thấy được những đồ vật, con vật những sự vật xung quanh từ dễ đến khó, sau một lần trẻ trả lời được tôi kịp thời khen trẻ để trẻ phát huy nhiều hơn nữa trong việc khá phá về môn học đó. 
 Môi trường hoạt động cho trẻ cũng rất quan trọng, trẻ được vận động trong điều kiện rộng rãi, thoải mái, làm tăng sự hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, tăng sự trao đổi chất, rèn luyện sự thích nghi với tác động của các yếu tố tự nhiên, tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Giúp trẻ mở rộng thêm tầm hiểu biết về sự vật hiện tượng xung quanh, làm giàu xúc cảm thẩm mỹ, trẻ được mở rộng diện tiếp xúc, được trực tiếp quan sát tiếp xúc các sự vật hiện tượng sống động trước mắt làm phong phú vốn biểu tượng và giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của môi trường xung quanh. Tạo điều kiện để trẻ vận dụng những hiểu biết, kiến thức, kỹ năng đã học và hoàn cảnh thực tiễn. Vì vậy việc lựa chọn môi trường sao cho phù hợp với trẻ là rất quan trọng.
Tôi luôn tìm chọn những địa điểm thực sự gần gũi và gây hứng thú với trẻ dựa trên thực tế mà trường mình có: Bóng mát của các cây trong trường, bồn hoa Trên cơ sở đó tôi biến những điều không có thành có bằng cách khi cho trẻ ra dạo chơi tôi bí mật giấu một đồ vật mà tôi muốn trẻ tìm hiểu rồi tạo tình huống cho trẻ thấy. Khi đó trẻ sẽ tò mò và cùng xúm quanh tôi lại tìm hiểu đặt câu hỏi, như vậy tự nhiên tôi đã có một môi trường học tập thật sự gây hứng thú cho các cháu, và các cháu lại được gần gủi với cô rất là thân thiện.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát bồn hoa của lớp, cô cho trẻ quan sát và tự nói lên những hiểu biết của mình như: Đó là hoa gì? Hoa có đặc điểm gì? Lợi ích của hoa Qua đó, cho trẻ nói lên những suy nghĩ của mình về môi trường đó và từ đó rút ra kết luận.
 Hình ảnh trẻ quan sát bồn hoa
* Biện pháp 5: Biện pháp cho trẻ khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi, trong các hoạt động hàng ngày của trẻ.
Không chỉ những hoạ

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_5_6_tuoi_ngu.doc