Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 viết đúng và đẹp

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 viết đúng và đẹp

Muốn nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên cần nắm vững:

a) Yêu cầu cơ bản của dạy tập viết ở lớp 1:

- Kiến thức: Giúp học sinh có được những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số.

- Kỹ năng: Viết đúng quy trình – nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn trong bài tập đọc (không mắc quá 5 lỗi chính tả).

b) Chương trình và vở tập viết hiện hành:

- Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở tập viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng.

- Ở vở tập viết lớp 1, sau một bài học vần có một bài tập viết để học sinh rèn luyện cách viết các chữ vừa học.

- Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc như: đường kẻ ngang, đường kẻ dọc, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ, kí hiệu bài viết của tiết tập viết.

- Vở tập viết của Bộ giáo dục phát hành giúp học sinh không ngừng nâng cao về chất lượng chữ viết mà còn phối hợp với các môn học khác nhằm phát huy vai trò của phân môn tập viết. Chương trình tập viết lớp một gồm có:

 + Từ tuần 1 đến tuần 24: Sau mỗi bài học vần học sinh được luyện viết những chữ các em vừa học và khoảng 2 tuần có thêm 1 tiết tập viết.

 + Từ tuần 25 dến tuần 35: Mỗi tuần có 1 tiết tập viết, mỗi tiết 35 phút và học sinh được làm quen với chữ viết hoa.

 

doc 40 trang cuonglanz2a 13994
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 1 viết đúng và đẹp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN LONG BIÊN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 1 
VIẾT ĐÚNG VÀ ĐẸP
MÔN: TIẾNG VIỆT
TÀI LIỆU KÈM THEO: ĐĨA CD
NĂM HỌC 2014 - 2015
PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết thì cả một thế giới mới rộng lớn sẽ mở ra trước mắt các em. Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Vì vậy dạy chữ chính là dạy người.
 Tiểu học là bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và tập viết Tiếng Việt là chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để mở ra những cánh cửa bước vào tương lai, là công cụ để các em vận dụng suốt đời. Tập viết là một trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học, nhất là đối với học sinh lớp 1. Tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ cái La-tinh và những yêu cầu kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường – kỹ năng viết chữ. Nếu chữ viết đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ tốt hơn. Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn mình”.
 Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thày cô giáo đã trăn trở, góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy học chữ viết. Tuy vậy, nhiều học sinh vẫn viết sai, viết xấu, viết chậm đặc biệt là học sinh lớp1. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới các môn học khác. Thực tế hiện nay, chữ viết của các em học sinh lớp 1 chưa được đẹp, chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ, liên kết giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại bút – nhiều màu mực để viết bài nên còn hạn chế trong việc giữ gìn “vở sạch – viết chữ đẹp”. Đây là một mảng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các trường quan tâm. 
 Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài : “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết đúng và đẹp ’’.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
 Tìm ra các biện pháp hiệu quả nhất để: 
Giúp học sinh lớp 1 viết đúng, viết đẹp. 
Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng - đẹp - đảm bảo tốc độ. 
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
 - Bảng chữ cái và các phương pháp dạy viết chữ. 
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM
 - Giáo viên và học sinh lớp 1E. 
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 1 Phương pháp nghiên cứu lí luận
 2. Phương pháp quan sát 
 3. Phương pháp điều tra khảo sát 
 4. Phương pháp thống kê
VI. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
 Thời gian thực hiện: Từ tháng 9 năm 2013 và kết thúc vào tháng 5 năm 2014, thực hiện tại lớp 1E, tổng số 35 học sinh. 
PHẦN B : NỘI DUNG
I . CƠ SỞ LÍ LUẬN 
 Muốn nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên cần nắm vững:
a) Yêu cầu cơ bản của dạy tập viết ở lớp 1:
- Kiến thức: Giúp học sinh có được những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh và chữ số.
- Kỹ năng: Viết đúng quy trình – nét, viết chữ cái và liên kết các chữ cái tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện các kỹ năng như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở bài kiểm tra cuối năm là bài tập chép một đoạn trong bài tập đọc (không mắc quá 5 lỗi chính tả).
b) Chương trình và vở tập viết hiện hành:
- Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, giáo viên cần hiểu rõ ý đồ của vở tập viết. Cấu trúc mỗi bài gồm phần tập viết chữ cái và từ ứng dụng.
- Ở vở tập viết lớp 1, sau một bài học vần có một bài tập viết để học sinh rèn luyện cách viết các chữ vừa học.
- Các ký hiệu trong vở tập viết phải được học sinh nắm chắc như: đường kẻ ngang, đường kẻ dọc, quy định độ cao chữ cái, dấu chấm là điểm đặt bút đầu tiên của chữ, kí hiệu bài viết của tiết tập viết.
- Vở tập viết của Bộ giáo dục phát hành giúp học sinh không ngừng nâng cao về chất lượng chữ viết mà còn phối hợp với các môn học khác nhằm phát huy vai trò của phân môn tập viết. Chương trình tập viết lớp một gồm có:
 + Từ tuần 1 đến tuần 24: Sau mỗi bài học vần học sinh được luyện viết những chữ các em vừa học và khoảng 2 tuần có thêm 1 tiết tập viết.
 + Từ tuần 25 dến tuần 35: Mỗi tuần có 1 tiết tập viết, mỗi tiết 35 phút và học sinh được làm quen với chữ viết hoa.
 II. CƠ SỞ THỰC TẾ 
 Tâm lý tình cảm có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình nhận thức. Nếu trẻ được viết trong tư thế thoải mái, tâm trạng phấn khởi thì dễ có kết quả tốt. Ngược lại, nếu trẻ buồn phiền thì chữ viết cũng bị ảnh hưởng. HS lớp 1 còn rất non nớt, chuyển từ hoạt động vừa học vừa chơi ở mẫu giáo sang hoạt động học tập là chủ yếu nên khả năng tập trung của trẻ kém, tay trẻ còn non nớt.
1) Lý thuyết hoạt động:
 Để viết được chữ thì học sinh phải hoạt động (phải tiêu hao năng lượng của thần kinh và bắp thịt). Hoạt động viết của học sinh được thực hiện qua thao tác sau:
- Làm quen với đối tượng: Khi giáo viên hướng dẫn thì trẻ sẽ tri giác bằng mắt, tai và tay sẽ làm theo.
- Nói điều mình tri giác được, vừa nói vừa đưa tay theo các đường nét của chữ cái để nhấn mạnh cách viết đồng thời nhận ra tên gọi, hình dáng chữ đó.
- Nói thầm kiến thức mới thu nhập được để tái hiện hình ảnh đó trong óc trước khi viết.
- Làm thử: Hình ảnh đã có trong óc cần được thể hiện trên bảng, trên giấy bằng các dụng cụ như bút bảng, phấn, bút mực.
- Kiểm tra lại kết quả so với mẫu để rút kinh nghiệm cho lần sau.
2) Đặc điểm đôi tay trẻ khi viết:
- Tay trực tiếp điều khiển quá trình viết của trẻ. Các cơ và xương bàn tay của trẻ đang độ phát triển nhiều chỗ còn sụn nên cử động các ngón tay vụng về, chóng mệt mỏi.
- Khi cầm bút các em có tâm lý sợ rơi. Điều này gây nên một phản ứng tự nhiên là các em cầm bút chặt, các cơ tay cứng nên khó di chuyển.
- Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng, thoải mái, trước hết học sinh phải biết kỹ thuật cầm bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa), bàn tay phải có điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải tự nhiên, đừng quá chặt sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
- Nếu các em cầm bút sai kỹ thuật bằng 4 đến 5 ngón tay, khi viết vận động cổ tay, cánh tay thì các em sẽ mau mệt mỏi, sức chú ý kém, kết quả chữ viết không đúng và nhanh được.
3) Đặc điểm đôi mắt trẻ khi viết:
- Trẻ tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Vì vậy, nếu chữ viết được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc ánh sáng kém thì các em phải cúi sát xuống để nhìn cho rõ chữ, từ đó dẫn đến cận thị.
- Trong thời gian đầu, có thể các em nhận ra đúng hình chữ nhưng bàn tay chưa ghi lại đầy đủ hình dáng của mẫu chữ. Chỉ sau khi luyện tập, số lần nhắc đi nhắc lại nhiều hay ít tuỳ theo từng học sinh, thì các em mới chép đúng mẫu.
III. THỰC TRẠNG CHỮ VIẾT CỦA HỌC SINH LỚP 1 
1. Ưu điểm:
- Hầu hết các em đều qua mẫu giáo.
- Sĩ số lớp vừa phải nên thuận lợi trong việc quản lý và đi sâu sát đến học sinh.
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của các em, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cần thiết cho các em.
- Cơ sở vật chất tốt, bàn ghế đúng kích cỡ, đủ ánh sáng.
- Nhìn chung học sinh lớp 1 bắt đầu học viết nắm được quy trình viết, biết cách viết chữ ghi âm Tiếng Việt.
- Về cơ bản, các em đã viết đúng mẫu các chữ cái để ghi âm, vần, tiếng và đảm bảo đúng cỡ chữ quy định.
- Khi viết các em đã thể hiện được tính thẩm mĩ, biết cách trình bày một bài viết.
- Tốc độ viết về cơ bản đã đạt được ở mức yêu cầu quy định.
2. Tồn tại : 
- Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu các chữ cái để ghi âm, vần, tiếng, không đúng cỡ chữ (độ cao, độ rộng) ghi dấu thanh không đúng vị trí.
VD: + HS thường viết sai mẫu chữ, nhất là những chữ dễ lẫn như: n với u; ô với â; s với r; tr với th; k với h 
 + Dấu thanh ghi không đúng vị trí như thừơng, phựơng, ngòai, qủa ..
- Một số HS chưa nắm chắc luật chính tả nên còn viết sai chính tả: ge, nge, ci 
- Phần lớn HS viết chữ chưa đẹp (chưa có tính thẩm mĩ) các nét chữ, con chữ chưa đều, sự kết hợp các con chữ chưa hài hoà, mềm mại, chữ viết nghiêng ngả (lúc viết bên phải, lúc viết bên trái) một cách tuỳ tiện. Một số HS chưa biết cách trình bày 1 bài viết sao cho cân đối, khoảng cách các vần, các từ xa.
3. Nguyên nhân :
- Trước hết là do nhận thức của người dạy và học, nhận thức của cha mẹ HS chưa thấy hết vị trí, tầm quan trọng của sự tác động qua lại giữa các môn học.
- Đa số phụ huynh chưa nắm được cấu tạo chữ viết theo chương trình mới.
- Trong giờ tập viết giáo viên chưa hướng dẫn một cách cơ bản, tỉ mỉ về việc viết đúng mẫu, chữ viết chưa đúng quy trình từ nét đầu tiên đến khi kết thúc một con chữ.
- Đôi tay của học sinh lớp 1 đang phát triển, nhiều chỗ còn là sụn nên cử động của các ngón tay vụng về, yếu, chóng mỏi. 
- Khi viết các em còn ngồi sai tư thế nên viết nhanh mỏi ảnh hường tới chất lượng chữ viết. 
- Các em cầm bút có tâm lý sợ rơi, cầm bút chặt, các cơ tay căng khó di chuyển, dường như các em viết toàn thân chứ không phải viết bằng tay, khi viết mím môi, mím lợi, tròn mắt. Học sinh viết rất khó khăn, viết chậm và một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu các chữ cái để ghi âm, vần, tiếng, không đúng cỡ chữ (độ cao, độ rộng, khoảng cách giữa các con chữ và giữa các chữ thường quá hẹp hoặc quá rộng). Ghi dấu thanh không đúng vị trí.
- Một nguyên nhân nữa là để đảm bảo tốc độ viết ngày càng tăng theo yêu cầu quy định nên nhiều học sinh viết còn chưa cẩn thận, chưa đúng cỡ chữ, độ cao, độ rộng, chữ viết không đều nhau. 
IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH RÈN VIẾT CHỮ ĐÚNG VÀ ĐẸP :
Muốn học sinh viết đúng , viết đẹp tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
1.Biện pháp thứ nhất: Khảo sát nắm bắt tình hình lớp 
- Khi bước vào lớp 1, một thế giới mới mở ra trước mắt các em. Các em được cô giáo uốn nắn những nét chữ đầu tiên. Mọi thứ tưởng chừng như đơn giản nhưng với các em viết chữ đúng ly, đúng dòng, đúng độ rộng thật khó. Chính vì vậy người giáo viên phải nắm bắt được tâm sinh lý, khả năng của các em để từ đó có biện pháp uốn nắn thích hợp. 
- Để nắm được rõ tâm sinh lý của các em, người giáo viên cần phải gần gũi, chuyện trò cùng các em. 
- Để nắm rõ khả năng viết chữ của các em, ngay từ những ngày hè nhận lớp, người giáo viên cần luyện cho học sinh tô chữ để rèn khả năng khéo léo của đôi tay và làm quen dần với các nét cơ bản, qua đó giáo viên sẽ nắm được phần nào khả năng viết của các em và từ đó có những biện pháp rèn chữ phù hợp nhất. 
+Với những em nhút nhát thì giáo viên phải động viên khích lệ nhẹ nhàng, tránh gây áp lực cho các em ảnh hưởng tới chất lượng chữ viết. 
+ Những em hiếu động, chưa tập trung thì giáo viên cần nghiêm khắc kết hợp khen ngợi khi các em có tiến bộ dù là tiến bộ rất nhỏ. 
+ Những em nhận thức chậm giáo viên cần để ý và hướng dẫn kĩ lại cho học sinh nắm được cách viết. 
+ Những em nhanh nhẹn nhưng chưa cẩn thận, giáo viên cần rèn cho các em tính cẩn thận khi viết chữ.
2.Biện pháp thứ 2: Chuẩn bị đầy đủ mọi phương tiện trước khi viết chữ 
- Sau khi đã khảo sát và nắm bắt được tình hình lớp trong những buổi đầu năm , tôi tiến hành làm những công việc đầu tiên để chuẩn bị thật tốt cho quá trình dạy viết sắp tới :
a, Để một giờ tập viết thành công trước tiên phải có sự chuẩn bị chu đáo về cơ sở vật chất.
a.1. Giáo viên
- Kẻ bảng lớp theo đơn vị ô ly chuẩn bị theo vở tập viết của học sinh.
- Phô-tô cho mỗi học sinh một tờ chữ mẫu các chữ cái viết thường theo quy định của Bộ giáo dục để phụ huynh phối hợp cùng nhà trường dạy con em mình cho thống nhất.
a.2. Học sinh
+ Bảng con: Mua đồng loạt bảng con (có dòng ly dọc, ngang) theo mẫu vở tập viết để học sinh quen với việc xác định các điểm đặt bút từ bảng đến vở cũng giống nhau.
+ Phấn trắng: Phấn không bụi, mềm, dễ viết, dài vừa phải. Hộp phấn có khăn bông nhỏ, hơi ẩm (không dùng khăn lau có nhiều nilông, mút để lau bảng)
+ Vở viết: Phải là loại vở có kẻ ô vuông, ô ly dọc, ngang để học sinh dễ xác định điểm đặt bút, dễ ước lượng độ rộng các nét khi viết (Từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc).
+ Giấy kê tay : Tờ giấy kê có kích thước chiều rộng khoảng 15cm, chiều dài dài hơn chiều ngang quyển vở. Khi viết ta đặt tờ giấy kê nằm ngang giữ cho mồ hôi tay không bị lem vở và vở không quăn góc.Đối với những em mồ hôi tay ra nhiều phải có một chiếc khăn tay khô và sạch để lau tay thường xuyên khi viết .
+ Bút : 
Ở giai đoạn đầu dùng bút chì tôi hướng dẫn các em chọn loại bút 2B. Đầu bút chì gọt không nhọn quá, không dài quá (nếu bút chì nhọn và cứng quá nét sẽ mảnh, đôi khi còn chọc thủng cả giấy hoặc nếu nét chì quá to và mềm nét chữ sẽ to quá cỡ, học sinh khó viết được chuẩn các nét).
Đến giai đoạn viết bút mực nên chọn bút nét hoa, để viết được nét thanh nét đậm như : bút mài Ánh Dương, bút mực Kim Thành 18, Kim thành 20, bút Vạn Hoa hoặc bút Hồng Hà.... Lưu ý phụ huynh không nên mua cho con bút dạ, bút bi nước vì bút này tuy viết vở không bị nhòe nhưng lại trơn, khó điều khiển dễ bị trượt nên nét chữ bị xấu.
Để bút viết tốt, bút không bị tắc mực nên rửa bút 1 tuần/lần.
Để tránh tình trạng đổ mực ra vở(giai đoạn viết bút mực) giáo viên yêu cầu học sinh luôn chuẩn bị ít nhất là 2 cái bút mực, phải bơm mực sẵn trước khi đi học, tuyệt đối không được mang lọ mực đến lớp.
Trong tủ của cô luôn có sẵn 1 lọ mực để bơm mực cho các em quên bơm mực khi đến lớp.
b. Thực hiện đúng các qui định khi viết chữ:
 b.1 Tư thế ngồi viết: Đây là yêu cầu không kém phần quan trọng trong một giờ tập viết mà không ít giáo viên đã bỏ qua hoặc hướng dẫn chưa đến nơi đến chốn dẫn đến tình trạng các em ngồi viết chưa đúng tư thế (nghiêng bên phải, bên trái) dẫn đến việc học sinh dễ mỏi, dễ chán nản nên viết chữ cẩu thả, tuỳ tiện.Vì vậy cần phải hướng dẫn tư thế ngồi viết đúng quy cách cho học sinh như sau:
- Ngồi ngay ngắn, thẳng cột sống, vai ngang bằng, ngực cách mép bàn ít nhất 1 cm (tránh tỳ ngực vào bàn dễ mắc bệnh tim phổi).
- Hai chân song song với nhau, gập thành vuông góc.
- Đầu hơi cúi.
- Mắt cách vở khoảng 20-30cm.
- Tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch, tay phải cầm bút bằng 3 đầu ngón tay.
 Hiện nay nhiều giáo viên không chú ý hướng dẫn và rèn cho học sinh tư thế ngồi học nên rất nhiều em có tư thế ngồi sai lệch rất đáng lo ngại. Vì vậy việc chỉnh sửa tư thế viết cho học sinh phải được đề cập đến thường xuyên trong từng giờ tập viết. 
+ Tôi đã soạn các câu dễ nhớ dễ thuộc về tư thế ngồi viết dạy cho học sinh để các em đọc đồng thanh và thực hành ngay trước khi viết : 
Tư thế ngồi viết
Khi viết 
Tay phải cầm bút 
Tay trái giữ vở
Lưng thẳng
Đầu hơi cúi 
Hai chân song song. 
+ Để cụ thể hơn tôi treo bức ảnh tư thế ngồi viết đúng ngay trước lớp để học sinh luôn được quan sát và học tập cách ngồi cho đúng rồi cho các em rèn tập, từng đôi bạn ngắm nhìn tư thế ngồi của nhau, góp ý và sửa dáng ngồi cho nhau.
b.2 Cách cầm bút: 
Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá). Khi viết, dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại, thoải mái. Cầm bút nghiêng xuôi theo chiều ngồi. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng. 
Khi cầm bút mực lưu ý: Phần mặt ngòi bút hướng lên trên và phần cựa gà hướng xuống dưới mặt bàn, không nên xoay theo các hướng khác nhau.
Sau đó giáo viên làm mẫu cho cả lớp xem, yêu cầu học sinh dùng 3 ngón cái, trỏ, giữa đưa lên không trung để làm động tác cầm bút và để giáo viên dễ theo dõi, sửa cho các em. 
 - Khi viết dùng ngón cái nhấn bút theo các nét đưa xuống và dùng ngón trỏ đẩy bút theo các nét đưa lên để tạo cho chữ viết có nét thanh nét đậm rõ ràng. 
 - Khi không viết thì học sinh phải đóng ngay nắp bút lại.
b.3 Cách để vở, xê dịch vở khi viết: 
 	Khi viết chữ đứng, tôi hướng dẫn học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, chữ tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ.  Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở).
b.4 Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết; viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ, không được tẩy xoá mà cần để cách một khoảng bằng một con chữ o rồi viết lại.
3 Biện pháp thứ 3: Giúp học sinh nắm chắc tên gọi các thuật ngữ có liên quan trong quá trình hướng dẫn viết chữ 
Nếu không nắm chắc tên gọi các thuật ngữ trong quá trình hướng dẫn viết của giáo viên thì học sinh không thể nắm được cách viết. 
1.Đường kẻ dọc, đường kẻ ngang : 
- Tọa độ chữ được xác định trên đường kẻ ngang của vở tập viết. Mỗi đơn vị dòng kẻ trong vở gồm có 4 dòng kẻ ngang (1 dòng đầu đậm và 3 dòng còn lại được in nhạt hơn). Ta ký hiệu đường kẻ đậm đầu tiên là đường kẻ ngang số 1, các đường khác là 2, 3, 4, kể từ dưới lên trên.
Ví dụ
4
3
2
1
- Cách xác định tọa độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện để dạy chữ viết thành một quy trình. Quy trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác mà hành trình ngòi bút đi qua tọa độ các chữ.
- Ngoài việc thống nhất các khái niệm về đường kẻ, ô vuông như trên, để việc tổ chức dạy tập viết có hiệu quả hơn, cần chú ý thêm một số thuật ngữ có liên quan:
2- Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
Ví dụ:                                                                 
+ Điểm đặt bút của chữ b nằm trên đường kẻ ngang 2 .      
+ Điểm đặt bút chữ o không nằm trên đường kẻ ngang.
3 - Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm dừng bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
Ví dụ: + Điểm dừng bút của chữ o trùng với điểm đặt bút. 
 + Điểm dừng bút của chữ c nằm giữa dòng kẻ ngang 1 và 2 
4- Tọa độ điểm đặt bút hoặc dừng bút: Về cơ bản, tọa độ này thống nhất ở vị trí 1/3 đơn vị chiều cao chữ cái, có thể ở vị trí trên hoặc dưới đường kẻ ngang.
5- Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau.
Ví dụ: a nối với m   ->  am
x nối với inh  ->  xinh
=> Các nét bút viết liền mạch khi viết không nhấc bút. 
6- Kỹ thuật lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng). Thao tác đưa bút trên không gọi là lia bút.
Ví dụ:  b nối với a    ->  ba
=> Từ b -> a không viết liền được ta viết chữ b sau đó lia bút sang điểm bắt đầu của chữ a.
7- Kỹ thuật rê bút: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ vừa viết. Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau.
Ví dụ: Khi viết chữ p phải viết nét thẳng của chữ p sau đó không nhấc bút để viết mà rê ngược bút lên đường kẻ ngang thứ 2 để viết nét móc 2 đầu.
4. Biện pháp thứ 4 : Rèn kĩ các nét trước khi viết chữ
 Việc rèn chữ viết của học sinh trong nhà trường vô cùng quan trọng, để giúp học sinh viết đúng cỡ chữ, viết đẹp thì không thể coi nhẹ phần viết nét cơ bản. Có 13 nét cơ bản mà tôi yêu cầu học sinh phải nhớ và tập viết chính xác: nét ngang, nét thẳng, nét x

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_1_v.doc