Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh Lớp 4 theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT

Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh Lớp 4 theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT

Thực trạng:

2.1.1. Thuận lợi:

- Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học.

- Tổ chuyên môn, đoàn thể trong nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về mọi mặt.

- Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học: Lớp học rộng rãi, thoáng mát, bàn ghế đầy đủ đúng quy cách phù hợp cho các em học sinh.

- Thông qua cuộc họp phụ huynh Nhà trường đã chỉ đạo GVCN triển khai Thông tư 30 đến tận từng phụ huynh để cùng phối kết hợp trong giáo dục và đánh giá học sinh.

- Bản thân nhiệt tình trong công tác, hết lòng vì học sinh thân yêu.

- Một số phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình. Công tác xã hội hóa giáo dục được phát triển.

- Lớp 4A là lớp được Nhà trường mạnh dạn đăng ký học theo mô hình VNEN từ lớp 2 lên đây là một thuận lợi cho việc hình thành các năng lực, phẩm chất để các em phát triển toàn diện.

- Phần lớn học sinh ngoan ngoãn, biết yêu thương đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.

2.1.2. Khó khăn:

* Về học sinh - Thực tế trong năm học 2015- 2016, lớp 4A do tôi phụ trách còn một số em ý thức học tập chưa cao: Học sinh đến lớp không đúng giờ, quên mang dụng cụ học tập, chưa tập trung chú ý trong giờ học, chưa hợp tác trong nhóm gây ảnh hưởng đến việc học tập cũng như nề nếp của lớp.

-Nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong học tập và sinh hoạt chung. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử có phần còn mang tính “ tuỳ tiện ”. Một số ít em tiếp thu bài còn chậm nhưng chưa dám tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn, của cô giáo về những điều mình chưa biết.

* Về phụ huynh

- Phần lớn các em là con nhà nông dân, một số gia đình khó khăn mãi làm ăn nên phụ huynh không có thời gian quan tâm đến việc học tập của con cái.

- Địa bàn học sinh ở rộng dẫn đến ảnh hưởng không ít đến việc đi lại, học hành của con em nhất là mùa mưa bão, việc phối kết giữa GV và phụ huynh cũng có phần khó khăn.

 

doc 21 trang hoathepmc36 28/02/2022 18634
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh Lớp 4 theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
"Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho HS lớp 4 theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT ".
1.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Với học sinh tiểu học, các năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình trải nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể, vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày. Điều này được thể hiện qua việc tự phục vụ, tự quản; giao tiếp hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề. Các phẩm chất của HS được hình thành và phát triển trong quá trình trải nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể, vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày; chia sẻ, hợp tác, giao tiếp, ứng xử với bạn bè, thầy cô, người lớn. Điều này được thể hiện qua việc chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè, con người.
GV sẽ quan sát các biểu hiện trong hoạt động của học sinh hàng ngày, hàng tuần để nhận xét, nhận định sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất, từ đó động viên, khích lệ, giúp HS khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các tố chất riêng, điều chỉnh hoạt động để tiến bộ, ứng xử kịp thời để tiến bộ.
Thực hiện Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng công nghiệp hóa hiện đại hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế: “ Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo”, “Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học ; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội”, ngày 28/8/2014 Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/2014 về đánh giá Học sinh Tiểu học. Thông tư 30 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/10/2014 và chính thức được áp dụng vào việc đánh giá học sinh các trường Tiểu học trên toàn quốc. Từ chỗ kiểm tra đánh giá thường xuyên bằng điểm số và chủ yếu hướng vào ghi nhớ kiến thức trước đây, được thay bằng đánh giá thường xuyên bằng nhận xét và kiểm tra đánh giá hướng vào năng lực, chú ý nhận xét, tư vấn, phản biện, mức độ thể hiện năng lực, phẩm chất học sinh.  Đặc biệt, cách đánh giá mới, không xếp loại học tập theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu, không so sánh học sinh này với học sinh khác nhằm khuyến khích được các em tự nỗ lực vươn lên, góp phần đáng kể giảm áp lực điểm số, căn bệnh thành tích trong giáo dục. Vậy làm thế nào để hình thành cho cho học sinh sự phát triển đúng đắn lâu dài về phẩm chất, năng lực theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT về việc đánh giá học sinh tiểu học ? Để làm tốt nội dung trên đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có cái nhìn sâu rộng, sự linh động sáng tạo, ứng xử thích hợp đối với từng đối tượng học sinh, để có thể dẫn dắt các em từ chỗ chưa có ý thức phải thực hiện theo sự nhắc nhở và cuối cùng đă có ý thức chuyển sang tự giác học tập, sinh hoạt.
Là một người giáo viên Tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi xác định rõ trọng trách, xem mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục học sinh phát triển năng lực, phẩm chất cho HS trong điều kiện xã nhà trường thuộc địa bàn còn khó khăn, là vấn đề không đơn giản nó khiến bản thân tôi trăn trở, chọn đề tài nghiên cứu: "Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho HS lớp 4 theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT ".
1.2. Điểm mới của đề tài:
Trường thuộc địa bàn xã còn khó khăn, Tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn nhiều, một bộ phận phụ huynh mãi làm ăn chưa quan tâm đến việc học tập của con em, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục các em học sinh. Điểm mới của đề tài là: 
- Giúp HS có kỹ năng giao tiếp nhằm hình thành và phát triển năng lực và phẩm chất theo hướng tích cực giúp HS tự tin sáng tạo trong việc tìm tòi, khám phá tri thức.
- Tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức cho phụ huynh trong công tác giáo dục học sinh. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh thông qua việc thiết lập kênh thông tin điện tử: Bằng điện thoại, gmail.....để trao đổi các thông tin kịp thời về công tác giáo dục học sinh đối với các phụ huynh, hộ gia đình đi làm ăn xa. Hình thành thói quen cho phụ huynh thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học tập. 
- Phối hợp với giáo viên bộ môn tạo cho các em môi trường giao tiếp tốt từ đó các em có nền nếp học tập tự giác, tích cực, đồng thời nâng cao chất lượng công tác giáo dục về năng lực, phẩm chất cho học sinh.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng:
2.1.1. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học.
- Tổ chuyên môn, đoàn thể trong nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về mọi mặt.
- Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học: Lớp học rộng rãi, thoáng mát, bàn ghế đầy đủ đúng quy cách phù hợp cho các em học sinh.
-  Thông qua cuộc họp phụ huynh Nhà trường đã chỉ đạo GVCN triển khai Thông tư 30 đến tận từng phụ huynh để cùng phối kết hợp trong giáo dục và đánh giá học sinh.
- Bản thân nhiệt tình trong công tác, hết lòng vì học sinh thân yêu.
- Một số phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình. Công tác xã hội hóa giáo dục được phát triển.
- Lớp 4A là lớp được Nhà trường mạnh dạn đăng ký học theo mô hình VNEN từ lớp 2 lên đây là một thuận lợi cho việc hình thành các năng lực, phẩm chất để các em phát triển toàn diện.
- Phần lớn học sinh ngoan ngoãn, biết yêu thương đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
2.1.2. Khó khăn:
* Về học sinh - Thực tế trong năm học 2015- 2016, lớp 4A do tôi phụ trách còn một số em ý thức học tập chưa cao: Học sinh đến lớp không đúng giờ, quên mang dụng cụ học tập, chưa tập trung chú ý trong giờ học, chưa hợp tác trong nhóm gây ảnh hưởng đến việc học tập cũng như nề nếp của lớp.
-Nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong học tập và sinh hoạt chung. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử có phần còn mang tính “ tuỳ tiện ”. Một số ít em tiếp thu bài còn chậm nhưng chưa dám tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn, của cô giáo về những điều mình chưa biết.
* Về phụ huynh
- Phần lớn các em là con nhà nông dân, một số gia đình khó khăn mãi làm ăn nên phụ huynh không có thời gian quan tâm đến việc học tập của con cái. 
- Địa bàn học sinh ở rộng dẫn đến ảnh hưởng không ít đến việc đi lại, học hành của con em nhất là mùa mưa bão, việc phối kết giữa GV và phụ huynh cũng có phần khó khăn.
2.1.3. Điều tra khảo sát, thống kê một số kĩ năng:
* Khảo sát nội dung: “Thảo luận nhóm” qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết Toán, Tiếng Việt, Khoa học.
TSHS
Năng lực hợp tác nhóm
Biết cách hợp tác, chia sẻ
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi nhóm, không chia sẻ.
SL
%
SL
%
27
14
51,9
13
48,1
* Khảo sát về chất lượng môn Toán- Tiếng Việt đầu năm học:
Môn
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Toán
4
14,8
8
29,6
11
40,7
4
14,8
Tiếng Việt
5
18,5
9
33.3
9
33,3
4
14,8
Từ những thực trạng trên là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi đã băn khoăn, tìm tòi để tìm ra những giải pháp nhằm hình thành năng lực, phẩm chất của học sinh lớp mình phụ trách. Với mong muốn được góp một phần kinh nghiệm của mình vào việc giáo dục một số năng lực, phẩm chất cho học sinh theo Thông tư 30/Bộ GDĐT là điều thực sự cần thiết. 
2.2. Các giải pháp:
2.2.1. Tổ chức điều tra sơ khảo về tình hình thực tế qua phụ huynh, tiếp cận tạo niềm tin:
Ngay từ đầu năm học khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4A, bản thân đã trực tiếp điều tra tình hình thực tế, sơ khảo về tình hình mọi mặt để nắm mặt mạnh, mặt yếu của lớp mình phụ trách. Trong lớp có bao nhiêu học sinh con gia đình nghèo, gia đình khó khăn, con công nhân, con nông dân... Từ đó có cơ sở để phân loại các biện pháp giáo dục. Đối với những học sinh nghèo, học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn thì luôn kết hợp với nhà trường, hội cha mẹ học sinh, các ban ngành đoàn thể khác tạo mọi điều kiện giúp đỡ các em về mọi mặt tinh thần cũng như vật chất. 
 Sau khi nhận lớp tôi đã tìm hiểu kỹ từng em thông qua phụ huynh bằng những câu hỏi thông thường như: hỏi tên, tuổi, sở thích,khen ngợi đồ dùng của các em để giúp các em mạnh dạn, tự tin và cảm thấy gần gũi với giáo viên hơn. Nhất là đối với những em nhút nhát, chưa tự tin khi chia sẻ ý kiến trước đám đông. Qua phụ huynh giáo viên còn phải biết thêm về những mặt ưu điểm, khuyết điểm của từng em để phát huy và có biện pháp khắc phục.
Tôi luôn tạo ra sự gần gũi với các em trong học tập cũng như trong giao tiếp, vui chơi để phát hiện khả năng nhận thức tư duy ở mỗi em. Thường xuyên theo dõi để phát hiện học sinh nào chăm học, học sinh nào lười học, em nào trung thực, em nào chưa trung thực. Với những em lười học, tôi thường động viên các em bằng những lời nói nhẹ nhàng, bằng những tuyên dương tán thưởng khi các em chăm học hơn. Với những em chưa trung thực, tôi thường dùng các câu chuyện có tình huống để kể cho các em nghe, cho các em liên hệ giáo dục qua câu chuyện đó.
Ví dụ: 
Với những học sinh thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đầu năm học các em chưa đủ sách vở để học thì giáo viên mượn sách trong tủ sách dùng chung để cho các em học. 
Với những học sinh còn rụt rè, nhút nhát tôi luôn gần gũi, trò chuyện, trong giờ học thường tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình.
2.2.2. Tìm hiểu về tâm lí, năng lực phẩm chất, kiến thức kĩ năng thông qua giáo viên dạy ở các em ở lớp 4:
Ngay từ đầu năm học nhà trường đã có kế hoạch cụ thể trong công tác chuyển giao tiếp nhận học sinh từ lớp dưới.
Vào kì thi cuối mỗi năm học Ban giám hiệu trường tiểu học thống nhất và có dự kiến phân công GVCN lớp năm sau tiến hành coi chấm thi nghiệm thu chất lượng của lớp dưới. Tiến hành kiểm tra kiến thức và năng lực của học sinh, qua kiểm tra tôi đã nắm bắt được những học sinh có năng lực nổi trội hoặc còn hạn chế như: Em nào đọc tốt, rõ lưu loát, học sinh nào viết chữ đẹp, em nào nắm chắc về toán, em có kĩ năng tính toán chậm, diễn đạt trong viết văn còn lủng củng......
 Ngoài ra tôi còn gặp giáo viên đã trực tiếp giảng dạy các em để tìm hiểu rõ về tình hình mọi mặt của từng học sinh, để nắm được các mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, đặc biệt là năng lực của các em. Qua đó, tôi biết được học sinh nào học giỏi, có năng lực nổi trội nào, học sinh nào ngoan, gia đình của học sinh đã quan tâm đến các em...để từ đó có biện pháp cụ thể hơn cho lớp mình trong năm học tới.
Ví dụ: Ở lớp 4 có em Đoàn Kim Quý hiện đang là học sinh lớp 4 tôi chủ nhiệm, ở lớp 4 em là học sinh có năng khiếu đặc biệt về môn Mỹ thuật. Thế nhưng em lại học chậm các môn học khác. Hay em Nguyễn Thị Thùy Nhung ở lớp 3 em có năng lực quản lý tốt, mấy năm liền làm lớp trưởng từ lớp 1- 3, em Nguyễn Thị Thu Hà có năng khiếu nổi trội là kể chuyện hay và hát hay...
Qua việc nắm bắt tình hình của từng học sinh, giáo viên lên kế hoạch đặt ra mục tiêu cụ thể cho từng học sinh của lớp mình để giúp các em vừa học tốt vừa phát huy được thế mạnh của mình.
2.2.3. Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học :
Từ việc điều tra sơ khảo đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của lớp từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp: Tổ chức cho lớp bầu ra Hội đồng tự quản của lớp, Hội đồng tự quản phải là người có học lực khá giỏi, đối xử hoà đồng với bạn bè, mạnh dạn, nhanh nhẹn, nhiệt tình trong công việc được giao, có khả năng điều hành, tự quản lớp hoạt động tốt.
Xây dựng lớp có nề nếp tốt tức là tạo cho các em học sinh có năng lực tự quản tốt, vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải lên kế hoạch cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường. Xây dựng được nề nếp tự quản, bầu chọn được Hội đồng tự quản của lớp gồm: 1 Chủ tịch Hội đồng, 2 Phó Chủ tịch, 5 trưởng ban phụ trách theo các ban: Ban học tập, văn nghệ, sức khỏe, đối ngoại, thư viện. Sau khi bầu xong, giáo viên họp Hội đồng tự quản và các trưởng ban để phân công quán triệt rõ nhiệm vụ cho từng em. GVCN cùng Hội đồng tự quản và các ban xây dựng các nội quy của lớp cụ thể, rõ ràng cho cả năm học.
	Ngoài ra, giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Gọi bạn xưng mình”. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự giác, chấp hành tốt nội quy của lớp, của trường. Muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là: “Tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng mực. Vì học sinh tiểu học các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục nghiêm khắc nhưng cởi mở gần gũi độ lượng, luôn vị tha đối với học sinh biết nhận lỗi và sửa lỗi, tuyệt đối không trù ém sĩ nhục học sinh.
	Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như vào lớp thuộc bài, lên lớp hiểu bài, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp Ban học tập kiểm tra bài tập về nhà của các bạn trong tổ... Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng góp một phần lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm học, giáo viên phải quán triệt nề nếp bằng cách: Cho cả lớp học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên, nội quy của nhà trường và 5 điều Bác Hồ dạy.
 Để giúp các em biết đem đúng đồ dùng học tập cho từng buổi học (vì đầu năm phần lớn các em chưa biết đọc chữ ), giáo viên sử dụng các chữ số để đánh dấu vào các cuốn sách, để các em không lẫn lộn. Với phương pháp này giáo viên không mất nhiều thời gian, không tạo áp lực đối với học sinh mà còn giúp cho lớp đi vào nề nếp tốt. 
Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số học sinh, dưới sĩ số là các kí hiệu ở góc bảng; + , B , V , S , 1, 2, 3, 4 ...
Chỉ vào + là cả lớp trật tự lắng nghe giáo viên giảng bài.
 Khi viết kí hiệu B là cả lớp lấy bảng con cá nhân làm bài.
 Giáo viên gõ thước đầu tiên học sinh đưa bảng, thước thứ hai là quan sát, nhận xét bài trên bảng, thước thứ ba xóa bảng.
 Giáo viên ghi kí hiệu / học sinh đọc cá nhân, // đọc đồng thanh nhóm, /// cả lớp đọc. 
 Giáo viên ghi kí hiệu 1 dành cho học sinh khó khăn trong học tập.
 Khi viết kí hiệu S là học sinh mở sách, kí hiệu V là lấy vở ra để ghi hoặc làm bài tập tại lớp. Sau khi học sinh làm xong thì giáo viên xoá các kí hiệu đó, học sinh sẽ cất sách hoặc vở đi.
Kí hiệu 1, 2, 3, 4 là nhắc nhở mỗi tổ khi chưa nghiêm túc trong giờ học.
 Cùng trong một lớp nhưng các tổ luôn thi đua với nhau, nếu tổ nào có một em đi học muộn hoặc nghỉ học không có giấy xin phép của cha mẹ các em thì xét thi đua tổ đó đứng sau các tổ không có em nào vi phạm. Muốn động viên phong trào thi đua thì giáo viên chủ nhiệm phải công minh, tuyệt đối không thiên vị theo cảm tính, từ đó gây lòng tin với các em.
	Không những giáo dục học sinh có nề nếp tốt trong giờ học, trong lớp mà còn thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh hoạt ngoài giờ.
	Ví dụ: Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ ở lớp để lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà sau đó các em ngồi vào truy bài dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng, tổ chức cho các em đi vào nề nếp truy bài, tuy giáo viên không có mặt ở lớp các em vẫn làm tốt.
	Nhưng cũng không phải phó mặc cho cán bộ lớp, giáo viên chỉ nghe lớp trưởng báo cáo kết quả chuẩn bị bài của các em mà ngoài 5 phút kiểm tra đột xuất 1, 2 bài trong mỗi tổ. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, không chiếm mất giờ dạy mà còn rèn cho học sinh tính tự giác cao, đồng thời hạn chế đùa nghịch của các em khi chưa vào học.
2.2.4. Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các biện pháp cụ thể để giáo dục học sinh:
 Căn cứ vào tình hình của lớp sau một thời gian học tập, tiến hành phân loại đối tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh tốt, có bao nhiêu học chưa tốt. Để có biện pháp giáo dục các em về mặt nào, môn nào để còn kịp thời bồi dưỡng nâng cao trình độ đồng đều của lớp.
Những em yếu, chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi vị trí giáo viên dễ tiếp cận, xếp một em học tốt ngồi bên cạnh, giao nhiệm vụ cho em kèm bạn yếu qua từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên theo dõi hướng dẫn học sinh học tập và theo dõi kết quả học tập của các em qua từng bài học. Đặc biệt cần chú ý phát triển tư duy nâng cao kiến thức bồi dưỡng học sinh có năng lực học tập tốt.
Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt cho các em hát tập thể, chơi các trò chơi dân gian để giúp các em càng gần nhau hơn, thân thiện cùng nhau hơn, giúp các em phát huy khả năng giao tiếp, ứng xử tình huống dễ dàng hơn.
Giáo viên gặp gỡ phụ huynh thường xuyên để tìm hiểu thêm về hoàn cảnh riêng của từng em, từ đó có cách giúp đỡ cho phù hợp. Đồng thời kêu gọi sự phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh và giáo viên trong việc xây dựng thời gian biểu học ở nhà, nhắc nhở việc chuẩn bị đồ dùng học tập trước khi đến lớp, kiểm tra bài làm, bài học ở nhà cho hoàn chỉnh.
Đối với học sinh cá biệt, giáo viên cần phải tăng cường việc gặp gỡ, trao đổi thường xuyên với phụ huynh để nắm rõ nguyên nhân, từ đó tìm biện pháp khả thi nhất để giúp đỡ em nhiều hơn. Chú ý khai thác điểm tốt dù nhỏ nhất để khích lệ, động viên, khen thưởng kịp thời, gây sự chú ý, ngưỡng mộ của các bạn trong lớp, tạo niền tin, để các em thấy được việc học là quan trọng, là tương lai sau này của một đời người, là niềm hy vọng của gia đình và xã hội, từ đó các em sẽ có ý thức hơn và chuyển hướng rõ rệt. Điều tối kỵ nhất là đừng nhìn các em với cái nhìn gay gắt, và không nên nhớ hoài những thói hư, tật xấu của các em, với cái tâm của một người thầy, của một người mẹ hãy mở rộng tấm lòng vị tha với các em hơn mới thật sự cảm hóa các em dần hoàn thiện hơn.
Đối với những em gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn, giáo viên cần có sự quan tâm đặc biệt hơn, tham mưu với lãnh đạo nhà trường với Ban đại diện CMHS hỗ trợ về vật chất, động viên về tinh thần tạo điều kiện cho các em được tham gia học tập tốt, ngoài ra giáo viên cần phải trao đổi với phụ huynh động viên cho các em đi học chuyên cần, không bỏ dở nữa chừng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Không chỉ quan tâm đến học sinh cá biệt mà một khâu quan trọng trong công tác chủ nhiệm là giáo viên cần phải quan tâm đến những em tốt, những em có năng khiếu bẩm sinh như vẽ đẹp, hát hay, kể chuyện tốt cử tham gia các phong trào nhà trường hay địa phương tổ chức vừa giúp các em phát huy được khả năng vừa được điểm phong trào cho lớp, cho trường.
	Trong giảng dạy, giáo viên phải dự kiến các tình huống sư phạm có thể xảy ra và cách ứng xử với học sinh. Thực hiện công tác giáo dục toàn diện thông qua việc kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Thường xuyên liên hệ trao đổi thông tin hai chiều với phụ huynh hoặc đến nhà để trao đổi tình hình học tập của học sinh. Lớp đã xây dựng được các nhóm học tập để giúp đỡ nhau như: Đôi bạn cùng tiến, Nhóm học tập tự quản... Qua đó thường xuyên kiểm tra động viên khuyến khích các em bằng phong trào hội hoa học tốt.
2.2.5. Xây dựng các mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với học sinh:
* Xây dựng mối quan hệ thầy- trò:
Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn- ban ơn; bề trên- kẻ dưới; giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công-hợp tác. Thầy thiết kế-trò thi công. Thầy giao việc-trò làm. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu cầu tôi đưa ra, học trò phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_hinh_thanh_nang_luc_pham_cha.doc