Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến

Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến

. Các bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến thường gặp.

Nghị luận văn học bàn về một ý kiến gồm nhiều dạng, dưới đây là một số dạng bài cơ bản thường gặp:

a. Dạng ý kiến bàn về một giai đoạn văn học.

Đây là dạng đề mà ý kiến được đưa ra trong phần đề bài thường yêu cầu chứng minh nội dung, hình thức nổi bật …của một giai đoạn văn học nào đó trong tiến trình văn học sử.

VD: Trong tác phẩm “Lòng yêu nước”, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có viết: “ Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. (...) Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

( Ngữ văn 6, tập2- NXBGD 2000- Trang 100)

Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Bằng sự hiểu biết của mình về văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, em hãy làm sáng tỏ ý kiến đó.

b. Dạng ý kiến bàn về một tác giả văn học.

Với dạng đề này thường nêu ra những ý kiến bàn về tư tưởng sáng tác, sự nghiệp sáng tác hay có thể là phong cách sáng tác…của một tác giả văn học cụ thể.

VD: Nhận định về giá trị tư tưởng trong các sáng tác của thi hào Nguyễn Du, có ý kiến cho rằng:

“Nguyễn Du là một con người suốt đời khắc khoải về con người, về lẽ đời.”

(Nguyễn Du toàn tập – Mai Quốc Liên, NXB Văn học, H. 1996)

Hãy chọn phân tích một hoặc một số tác phẩm của Nguyễn Du để làm sáng tỏ nhận định trên.

doc 17 trang Mai Loan 26/04/2025 520
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Mã số
 - Tên sáng kiến: Giải pháp giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài 
nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến. 
 - Lĩnh vực áp dụng: Tổ khoa học xã hội; môn Ngữ văn trong nhà 
trường THCS.
 - Họ tên tác giả: Nguyễn Thị Thùy Linh
 - Đơn vị công tác: Trường THCS Gia Khánh
 Bình Xuyên, tháng 02/2020 Nghị luận: nghị (xem xét, trao đổi; luận: bàn bạc, đánh giá) dùng lý lẽ, dẫn 
chứng và cách thức lập luận để phân tích, bàn luận, đánh giá về một (các) vấn đề 
nào đó.
 Văn học: là bộ môn nghệ thuật, khác với các bộ môn nghệ thuật khác nhờ 
chất liệu ngôn từ. Văn học là một loại hình sáng tác, phản ánh các vấn đề đời 
sống xã hội và lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, tái hiện những 
vấn đề của đời sống xã hội và con người (tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,) 
 Nghị luận văn học: là những bài văn nghị luận bàn về các vấn đề văn học 
(tác giả, tác phẩm, ý kiến nhận định về tác phẩm, nhân vật trong tác phẩm,) 
nhằm thể hiện suy nghĩ, thái độ, tiếng nói chủ quan của người viết về vấn đền 
đặt ra trong tác phẩm, đoạn trích, tình huống, nhân vật, góp phần tạo những 
tác động tích cực tới con người, bồi đắp những giá trị nhân văn và thúc đẩy sự 
tiến bộ chung của con người và xã hội.
 Nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến: là hình thức của bài nghị luận 
văn học mà nội dung là bình luận, phân tích một ý kiến bàn về văn học như 
những giá trị nội dung, những đặc sắc nghệ thuật, những quy luật, khám phá, 
chiêm nghiệm về đời sống toát lên từ tác phẩm, những nhận xét về các nhân 
vật
 1.1.2. Các bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến thường gặp. 
 Nghị luận văn học bàn về một ý kiến gồm nhiều dạng, dưới đây là một số 
dạng bài cơ bản thường gặp:
 a. Dạng ý kiến bàn về một giai đoạn văn học.
 Đây là dạng đề mà ý kiến được đưa ra trong phần đề bài thường yêu cầu 
chứng minh nội dung, hình thức nổi bật của một giai đoạn văn học nào đó 
trong tiến trình văn học sử.
 VD: Trong tác phẩm “Lòng yêu nước”, nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có 
viết: “ Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái 
cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của 
trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. (...) Dòng suối đổ 
vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng 
yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. 
 ( Ngữ văn 6, tập2- NXBGD 2000- Trang 100)
 Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Bằng sự hiểu biết của mình về văn 
xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, em hãy làm sáng tỏ ý kiến đó. 
 b. Dạng ý kiến bàn về một tác giả văn học.
 Với dạng đề này thường nêu ra những ý kiến bàn về tư tưởng sáng tác, 
sự nghiệp sáng tác hay có thể là phong cách sáng táccủa một tác giả văn học 
cụ thể.
 VD: Nhận định về giá trị tư tưởng trong các sáng tác của thi hào Nguyễn 
Du, có ý kiến cho rằng: 
 2 Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ Vũ 
Đình Liên, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
 d. Dạng ý kiến bàn về một vấn đề lí luận văn học.
 Ý kiến đưa ra ở đề bài thường nêu lên một vấn đề lí luận văn học như 
chức năng của văn học (thẩm mĩ, nhận thức, giáo dục), phương pháp sáng tác 
của nhà văn, nhân vật điển hìnhTuy nhiên, cũng giống như dạng ý kiến bàn về 
nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học, vấn đề nghị luận mà đề bài 
yêu cầu thường là ý kiến bàn về một vấn đề lí luận văn học thường không xuất 
hiện trực tiếp (đề chìm). Vì thế, để xác định đúng vấn đề nghị luận mà nhận định 
thuộc dạng này đưa ra, ngoài việc đọc kĩ nhận định học sinh còn phải biết vận 
dụng kiến thức lí luận văn học.
 VD: Hilde Domin (1909 – 2006), nữ nhà văn Đức từng viết: “Văn chương 
không chỉ làm rõ sự thật như nó vốn có; văn chương còn chỉ rõ sự giằng xé giữa 
những gì vốn có và những gì có thể hoặc nên có”
 Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích 02 
tác phẩm trong chương trình Ngữ văn THCS.
 1.2. Bước 2: Những yêu cầu cơ bản khi làm bài nghị luận văn học dạng 
bàn về một ý kiến.
 1.2.1. Trước hết, phải nắm chắc cách trình bày những đặc điểm của văn bản 
nghị luận.
 a. Luận điểm: khi trình bày luận điểm trong bài văn nghị luận cần chú ý:
 - Chuyển đoạn bằng từ ngữ,câu có tính liên kết.
 - Thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm trong câu chủ đề. 
Trong đoạn văn trình bày luận điểm, câu chủ đề thường đặt ở đầu tiên hoặc cuối 
cùng của đoạn.
 - Tìm đủ luận cứ cần thiết, tổ chức các luận cứ đó theo một trật tự hợp lí.
 - Diễn đạt trong sang, hấp dẫn để làm cho sự trình bày luận điểm có sức 
thuyết phục người đọc (người nghe).
 b. Luận cứ:
 - Muốn xác định được các luận cứ phải bám sát vào các luận điểm. 
 - Cách sử dụng luận cứ: Khi sử dụng luận cứ vào bài văn nghị luận,trước 
hết phải giới thiệu luận cứ, chỉ ra nguồn gốc của luận cứ. Cần trích dẫn chính 
xác. Nhớ nguyên văn thì đặt trong dấu ngoặc kép, nhớ đại ý thì chuyển thành lời 
dần gián tiếp. Dẫn nhân vật thì lược thuật cuộc đời và hoạt động của nhân vật. 
Cần sử dụng các lập luận để từ luận cứ mà làm rõ luận điểm. 
 c. Lập luận: lập luận là cách nêu luận cứ ( lựa chọn, sắp xếp, trình bày) để 
dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết 
phục.
 1.2.2. Thứ hai, phải tìm hiểu hệ thống kiến thức sử dụng của dạng bài:
 4 cần một tri thức rộng và sâu, những trải nghiệm của bản thân cần được trình bày 
một cách hợp lí, chặt chẽ và thuyết phục.
 1.3.3. Các bước tiến hành:
 a. Tìm hiểu đề và tìm ý.
 * Tìm hiểu đề:
 Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề giáo viên hướng dẫn các em nắm được 
cách thức tìm hiểu đề bằng cách đọc kĩ từ ngữ trong đề bài, chú ý những từ ngữ 
quan trọng để xác định các nội dung cơ bản sau:
 - Kiểu bài: bàn về một ý kiến văn học.
 Đối với bài nghị luận văn học dạng bàn về một ý kiến, trong đề thường 
xuất hiện các từ ngữ “làm sáng tỏ nhận xét trên”, “làm sáng tỏ nhận định trên”, 
“làm sáng tỏ ý kiến trên”
 - Vấn đề nghị luận: Là nội dung chính cần làm sáng tỏ trong bài viết.
 Để xác định được vấn đề nghị luận giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kĩ 
nhận định, ý kiến, tìm hiểu nghĩa của các từ ngữ quan trọng, cấu trúc của nhận 
định, ý kiến Vấn đề nghị luận của dạng bài bàn về một ý kiến thường là một 
trong các vấn đề sau: nội dung (nhân vật, sự việc, chủ đề, cốt truyện, hình 
ảnh), nghệ thuật (ngôn từ, giọng điệu, xây dựng tình huống, miêu tả nhân 
vật) của một tác phẩm văn học; phong cách sáng tác, tư tưởng sáng táccủa 
một tác giả văn học; đặc điểm của một giai đoạn văn học hay vấn đề về lí luận 
văn học
 - Phạm vi tư liệu: Trên cơ sở xác định được vấn đề nghị luận, học sinh xác 
định phạm vi tư liệu phục vụ cho việc làm sáng tỏ vấn đề nghị luận thường là 
kiến thức về các phương diện như: văn học sử, các tác phẩm văn học trong và 
ngoài chương trình, kiến thức lí luận văn học 
 * Tìm ý: 
 - Giáo viên hướng dẫn học sinh giải thích nhận định, ý kiến nêu ra trong đề 
bài thông qua việc:
 + Giải thích nhận định, ý kiến: giải nghĩa của các từ ngữ quan trọng trong 
nhận định, cấu trúc của nhận địnhrồi từ đó khái quát ý của cả nhận định bằng 
cách trả lời câu hỏi “Nghĩa là gì?”, “Là thế nào?”. Tuy nhiên, đối với những đề 
bài nhận định đã mang nghĩa tường minh thì không cần giải thích.
 + Giải thích cơ sở của vấn đề: trả lời những câu hỏi “Vì sao lại thế?”, “Lí 
do nảy sinh vấn đề là gì?”, “Nguyên nhân nào dẫn đến vấn đề?”để tìm 
hướng giải thích nhận định.
 - Trên cơ sở giải thích nhận định,ý kiến nêu ở đề bài, giáo viên hướng dẫn 
học sinh xác lập hệ thống luận điểm (những quan điểm, tư tưởng người viết đưa 
ra để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận ), luận cứ (lí lẽ, dẫn chứng) và phương pháp 
lập luận:
 6 • Chứng minh luận điểm
 • Kết luận luận điểm.
 + Luận điểm 2:...
 + Luận điểm 3:  
 - Đánh giá, mở rộng vấn đề:
 + Đánh giá thành công của vấn đề.
 + So sánh, đối chiếu vấn đề nghị luận.
 + Vai trò, ý nghĩa của vấn đề với bản thân.
 * Kết bài: 
 - Khái quát, khẳng định lại vấn đề: khẳng định ý nghĩa của vấn đề
 - Nâng cao.
 c. Viết bài: Học sinh dựa vào dàn ý viết bài theo bố cục 3 phần: Mở bài, 
thân bài, kết bài.
 Hướng dẫn học sinh cách viết bài
 * Hướng dẫn chung:
 - Học sinh cần vận dụng cách lập luận hợp lí, sử dụng thành thạo và linh 
hoạt các thao tác lập luận.
 - Khi viết bài, phải bám vào dàn ý đã xây dựng, theo bố cục và nhiệm vụ cụ thể 
của từng phần.
 - Chú ý cách viết đoạn văn triển khai luận điểm theo cách diễn dịch, qui 
nạp (khuyến khích viết đoạn Tổng - Phân - Hợp).
 - Sử dụng từ nối hoặc câu nối để tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các phần, các 
đoạn nhằm tạo sự mạch lạc cho văn bản. 
 - Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, chính tả, đặc biệt cần rèn khả năng tư duy 
sáng tạo, cách tổng hợp khái quát vấn đề.
 - Giáo viên hướng dẫn học sinh cách đưa và phân tích dẫn chứng: đưa dẫn 
chứng bằng cách dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp từ ngữ, câu trong văn bản sau đó 
phân tích những ý nổi bật nhất phục vụ cho việc làm sáng tỏ luận điểm.
 - Hướng dẫn học sinh lần lượt viết đoạn mở bài, các đoạn phần thân bài và 
đoạn kết bài.
 * Hướng dẫn cách viết mở bài.
 - Thế nào là một mở bài hay ?
 Là mở bài đúng, có phần dẫn dắt vào đề và nêu vấn đề nghị luận ngắn 
gọn, độc đáo, ấn tượng, sáng tạo. Thông thường có hai cách:
 + Mở bài trực tiếp: Mở thẳng vào vấn đề hoặc có thêm phần dẫn dắt (thời 
gian, không gian và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm).
 8 Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Bằng sự hiểu biết của mình về văn 
xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, em hãy làm sáng tỏ ý kiến đó. 
 Hướng dẫn cách làm:
 a.Tìm hiểu đề và tìm ý:
 a1.Tìm hiểu đề: 
 - Kiểu bài: nghị luận văn học dạng chứng minh một nhận định về một giai 
đoạn văn học.
 - Vấn đề nghị luận: ý kiến, nhận định của nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua về 
lòng yêu nước.
 - Phạm vi: các tác phẩm văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 
nay thể hiện tinh thần yêu nước.
 a2.Tìm ý:
 * Giải thích nhận định: 
 - Lòng yêu nước vốn là một khái niệm trừu tượng nhưng Ê-ren-bua đã diễn 
tả nó bằng những hình ảnh hết sức sinh động, cụ thể. Lòng yêu nước bắt đầu từ 
những tình cảm chân thực. Nó bắt đầu từ tình yêu những vật “tầm thường”, cụ 
thể nhưng gần gũi, gắn bó sâu sắc với mỗi con người. Đó là tình yêu cái cây 
trồng trước nhà, con phố nhỏ đổ ra bờ sông, vị thơm mát của trái lê mùa thu hay 
mùi cỏ thảo nguyên có hơi ruợu mạnh... Lòng yêu nước được diễn tả vừa cụ thể 
vừa đa dạng.
 - Giải thích được nhà văn Ê-ren-bua đã chọn cách diễn đạt và hình ảnh so 
sánh cụ thể như thế nào?
 * Chứng minh nhận định: tinh thần yêu nước trong các tác phẩm văn xuôi từ 
sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay.
 - Luận điểm 1: Tình yêu nước như là tình cảm sẵn có trong mỗi con người 
Việt Nam, trong văn học Việt Nam (tính truyền thống). Nó được thể hiện đặc 
biệt trong Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945.
 Dẫn chứng trong một số văn bản: “Làng” ( Kim Lân), “Lặng lẽ SaPa” 
 ( Nguyễn Thành Long), “Những ngôi sao xa xôi” ( Lê Minh Khuê)
 - Luận điểm 2: Những biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước.
 + Luận điểm phụ 1: Có thể đó chỉ là tình yêu với một vùng đất nhiều kỉ 
niệm
 Dẫn chứng trong một số văn bản: “ Sài Gòn tôi yêu” ( Minh Hương), Mùa 
xuân của tôi” ( Vũ Bằng), “ Cô Tô” ( Nguyễn Tuân)
 + Luận điểm phụ 2: Có thể là tình cảm của những con người cụ thể: 
 Dẫn chứng: Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, anh 
thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, Phương Định và tổ 
thanh niên xung phong của cô trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh 
Khuê... 
 10

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_giup_hoc_sinh_nang_cao_ky_na.doc