Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS
Trong những năm gần đây, mặc dù đã tích cực tiến hành đổi mới phương pháp dạy học tuy nhiên để học sinh hứng thú, yêu thích và say mê học môn Giáo dục công dân thì còn là một vấn đề mà nhiều giáo viên các trường THCS vẫn còn đang lúng túng trong việc tìm ra các giải pháp sao cho phù hợp.
Hình thức dạy học Giáo dục công dân hiện nay chủ yếu vẫn kế thừa theo hình thức dạy học truyền thống. Xét về bản chất, đây là phương pháp dạy học ở trên lớp, là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Thực hiện lối dạy này, giáo viên từ chỗ là người thuyết trình, diễn giảng “thầy giảng – trò nghe”, thì thầy đặt câu hỏi để thu hút nhiều học sinh trả lời sau đó thầy phân tích, giải thích lại để học sinh nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo với mục tiêu chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang lấy học sinh làm trung tâm. Tuy nhiên học sinh phải ghi chép nhiều, các em chưa được quan sát thực tế, chưa có cơ hội thảo luận để phát huy tính tích cực trong học tập.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do – Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến huyện Nho Quan. Tôi: Trình Tỉ lệ % Ngày đóng góp Nơi công Chức độ Họ tên tháng năm vào việc tác danh chuyên sinh tạo ra môn sáng kiến THCS Giáo Đại học Nguyễn Thị Bích Thảo 13.02.1984 Gia 100 viên sư phạm Tường Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn giáo dục công dân ở trường THCS”. I. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN: Nguyễn Thị Bích Thảo THỜI GIAN ÁP DỤNG: Từ năm học 2016 – 2017; 2017 - 2018 LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: Phương pháp dạy học IV. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 1. Nội dung sáng kiến Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học nói chung, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết. Bởi, môn Giáo dục công dân là một môn học đặc biệt, là một bộ phận của quá trình giáo dục các giá trị nhân cách (đạo đức, pháp luật, lối sống) vì mục tiêu của môn học chính là thực hiện mục tiêu của quá trình giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh. Đó là vị trí đặc biệt của môn Giáo dục công dân so với các môn học khác ở trường THCS. Đặc biệt hiện nay, học sinh chưa thực sự quan tâm và coi trọng môn học này, vẫn coi đây là môn học phụ. Mặt khác, cùng với mặt trái của cơ chế thị trường, vấn đề đạo đức, lối sống trong học sinh, tình trạng bạo lực hoc đường và tỷ lệ tội phạm ở lứa tuổi 1 vị thành niên có xu hướng gia tăng. Do đó, việc đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân là một trong những nội dung nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng học bộ môn cho học sinh. Đồng thời, giúp giáo viên có nhận thức và hướng đi tích cực khi tổ chức hoạt động học nhằm đa dạng hóa các hình thức dạy học. Qua đó, rèn luyện tính tích cực, chủ động và phát huy khả năng sáng tạo trong học tập của các em. Đó là lí do tôi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS”. Với mục đích từng bước đáp ứng yêu cầu của chương trình đổi mới giáo dục lấy hoạt động học làm trung tâm, nhằm tiếp cận dần với mô hình trường học mới và thực hiện có hiệu quả chủ trương của Bộ GD&ĐT về đổi mới phương pháp và hình thức dạy học trong các nhà trường. 1.1. Giải pháp cũ thường làm 1.1.1. Nội dung giải pháp Trong những năm gần đây, mặc dù đã tích cực tiến hành đổi mới phương pháp dạy học tuy nhiên để học sinh hứng thú, yêu thích và say mê học môn Giáo dục công dân thì còn là một vấn đề mà nhiều giáo viên các trường THCS vẫn còn đang lúng túng trong việc tìm ra các giải pháp sao cho phù hợp. Hình thức dạy học Giáo dục công dân hiện nay chủ yếu vẫn kế thừa theo hình thức dạy học truyền thống. Xét về bản chất, đây là phương pháp dạy học ở trên lớp, là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Thực hiện lối dạy này, giáo viên từ chỗ là người thuyết trình, diễn giảng “thầy giảng – trò nghe”, thì thầy đặt câu hỏi để thu hút nhiều học sinh trả lời sau đó thầy phân tích, giải thích lại để học sinh nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo với mục tiêu chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang lấy học sinh làm trung tâm. Tuy nhiên học sinh phải ghi chép nhiều, các em chưa được quan sát thực tế, chưa có cơ hội thảo luận để phát huy tính tích cực trong học tập. 1.1.2. Ưu điểm của giải pháp cũ Về không gian và thời gian: Không gian giới hạn trong một phòng học chỉ với không quá 45 học sinh theo sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT cho nên giáo viên dễ quan sát, dễ điều hành. Giúp giáo viên có thể truyền đạt một khối lượng kiến thức lớn trong một khoảng 2 thời gian ngắn; Giáo viên hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học sinh tiếp thu được nhiều kiến thức khi họ nhận được càng nhiều thông tin từ giáo viên. Giáo viên là người hoàn toàn chủ động về thời gian và nội dung giảng dạy; Giảm bớt những khó khăn, thời gian cho giáo viên trong việc chuẩn bị, chỉ cần chuẩn bị bài giảng thuyết trình một lần người giáo viên có thể sử dụng để giảng dạy trong nhiều lần. Còn các nhà trường cũng chủ động trong việc xây dựng kế hoạch dạy học. Phương tiện, thiết bị và đồ dùng dạy học: Giáo viên đã tăng cường sử dụng tranh ảnh, lược đồ, phương tiện nghe nhìn như máy chiếu, Tivi, đài và kênh hình vào trong giảng dạy. Hiện nay công nghệ thông tin phát triển giáo viên và học sinh có thể tiếp cận với tranh ảnh, tư liệu, tài liệu từ mạng Internet để làm phong phú hơn cho bài giảng của mình. Đối tượng: Số lượng học sinh không quá 45 em trong một lớp, chính vì vậy giáo viên có thể quản lí một cách dễ dàng không vất vả, đồng thời hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học sinh tiếp thu được nhiều kiến thức khi các em nhận được càng nhiều thông tin từ giáo viên. Mặc dù hiện nay việc sử dụng phương tiện, thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong các nhà trường được đẩy mạnh song con đường của nó đến với học sinh chủ yếu là phương pháp truyền thống, do vậy kết quả đạt được chưa cao. 1.1.3. Hạn chế của giải pháp cũ Không gian và thời gian có giới hạn thời gian chỉ có 45 phút cho một tiết học và không gian bó hẹp, khép kín trong một phòng học cho nên học sinh không có cơ hội và thời gian để quan sát, tìm hiểu, thu thập những tư liệu, tài liệu từ thực tế để làm phong phú thêm cho bài học. Đối tượng học là học sinh của một lớp với số lượng không quá 45 em theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Với số học sinh tham gia có giới hạn do đó các em ít được trao đổi, thảo luận, tương tác, khả năng hòa nhập cộng đồng chưa có. Về phía giáo viên khi muốn truyền tải một nội dung kiến thức hay một chủ đề nào đó cho học sinh trong cùng một khối lớp hoặc ở các khối lớp khác 3 nhau lại phải thực hiện nhiều lần, khiến cho giáo viên vất vả, hoạt động thì lặp đi lặp lại nhưng hiệu quả thu được không cao. Tư liệu và thiết bị dạy học ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên tranh ảnh, lược đồ, máy chiếu, loa đài, băng đĩa giáo viên và học sinh còn có thể thu thập tư liệu, tài liệu, tranh ảnh... trên mạng Internet nhưng việc sử dụng các nguồn tư liệu, thiết bị và phương tiện dạy học còn mang tính hình thức chỉ nhằm mục đích minh họa làm phong phú, sinh động hơn cho nội dung bài giảng của thầy, học sinh phải học thuộc lòng các kiến thức trong sách giáo khoa, các em chưa được quan sát thực tế, chưa có cơ hội thảo luận, hợp tác, phát huy tính tích cực, không được hòa nhập vào cộng đồng, trải nghiệm thực tế, không chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức từ thực tế Do không khơi dậy được tình yêu, niềm say mê với môn học cho học sinh vẫn coi đây là môn học phụ, chưa có hứng thú học tập. Việc lồng ghép, tích hợp kiến thức của nhiều môn học với nội dung phù hợp cũng gặp nhiều khó khăn dẫn đến các tiết học trở nên tẻ nhạt, học sinh thu động tiếp nhận kiến thức một chiều từ phía giáo viên. 1.2. Giải pháp mới cải tiến Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1993), Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII (1996) và được thể chế hóa trong luật giáo dục sửa đổi ban hành năm 2005 đã ghi “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển từ hình thức dạy học lấy giáo viên làm trung tâm và hình thức lấy học sinh là chủ thể hoạt động sang hình thức lấy hoạt động học làm trung tâm, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. Do đó, tôi đã tiến hành một số hình thức tổ chức hoạt động học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là: 1.2.1. Sử dụng chuyện kể để dạy học: . Trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể sử dụng các câu chuyện vào nhiều dạng khác nhau nhằm những mục đích khác nhau. Nhưng nhìn chung có ba dạng cơ bản thường được các giáo viên sử dụng một cách có hiệu quả. 4 * Sử dụng câu chuyện để dẫn dắt vào nội dung bài học. Hoạt động khởi động, giáo viên thường đưa ra những tình huống hay những câu chuyện kể để dẫn dắt học sinh vào bài học hoặc vào một phần nào đó của cấu trúc bài học. Sử dụng các câu chuyện giáo viên có thể dẫn dắt học sinh vào bài học một cách trực tiếp tạo sự chú ý và gây hứng thú cho học sinh. Có hai hình thức để dẫn học sinh vào bài học: - Sử dụng chuyện kể để vào bài mới. Đây là hình thức giáo viên dùng một câu chuyện có nội dung phù hợp với chủ đề bài học để đưa học sinh vào bài thay cho phần thuyết trình vào bài. Từ nội dung của câu chuyện giáo viên làm rõ chủ đề của bài học và bằng những câu hỏi có tính liên kết để dẫn học sinh vào bài mới, học sinh sẽ thấy cảm giác hứng thú đê bước vào bài. Chẳng hạn để dẫn học sinh vào bài 2 “ Siêng năng kiên trì” lớp 6. Giáo viên có thể bắt đầu giảng bằng câu chuyện về thầy giáo Nguyễn ngọc Ký, qua đó rút ra những kết luận về sự siêng năng, kiên trì vượt khó của thầy, là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Vậy để hiểu rõ hơn về đức tính siêng năng, kiên trì chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay. - Sử dụng chuyện kể để dẫn học sinh vào từng phần kiến thức của bài học. Cũng giống như sử dụng câu chuyện để vào bài mới, chỉ có điều khác đây giáo viên sử dụng câu chuyện để vào một phần nào đó, một đơn vị kiến thức nào đó của bài học. Ví dụ: Để dẫn học sinh vào phần kiến thức thứ hai của bài “ Năng động, sáng tạo” lớp 9. Giáo viên có thể bắt đầu bằng câu chuyện Sự thành công của giáo sư Ngô Bảo Châu. Để giúp cho học sinh thấy rõ năng động, sáng tạo giúp chúng ta thành công trong cuộc sống và làm nên những kỳ tích vẻ vang. Sử dụng chuyện kể để làm rõ tri thức. Là hình thức giáo viên dùng câu chuyện để làm sáng tỏ tri thức của bài học, qua nội dung câu chuyện học sinh sẽ nắm được tri thức bài học hay nói cách khác là thay cho việc dùng lý luận để phân tích, lý giải tri thức bài học cho học sinh. Đây là hình thức củng cố một lượng kiến thức của một phần nội dung bài học. Ví dụ: Trong phần đơn vị kiến thức quyền và nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong bài “ Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình” 5 lớp 8, giáo viên có thể sử dụng câu chuyện “ Chuyện của ba chị em mồ côi” (trích trong Quà tặng cuộc sống - NXB Tuổi trẻ). Qua câu chuyện giúp cho học sinh cảm nhận được rằng cuộc sống sẽ thật đẹp đẽ và có ý nghĩa khi chúng ta biết sẻ chia, yêu thương, giúp đỡ nhau của anh chị em trong gia đình; đồng thời còn thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau nếu không còn cha me. Sử dụng chuyện kể để củng cố bài học. Đây là hình thức sử dụng các câu chuyện sau khi kết thúc bài học. Giáo viên kể cho học sinh nghe một câu chuyện có nội dung phù hợp với bài học, trong đó nhấn mạnh đến những chi tiết thể hiện tri thức của bài học để củng cố tri thức đã truyền thụ cho học sinh. Ví dụ: Sau khi kết thúc bài 21 “ Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, giáo viên có thể sử dụng truyện kể về nhân vật bà luật sư Đức khi nói về các quy định của pháp luật. Qua đó, học sinh phải tự nhận thức được bản thân phải biết nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của Hiến pháp và pháp luật đồng thời còn phải biết tuyên truyền cho mọi người thực hiện tốt. 1.2.2. Tổ chức trò chơi trong dạy học: Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm phù hợp với các chuẩn mực, hành vi đạo đức đã học thông qua một trò chơi nào đó. Và đây cũng là một phương pháp rất quen thuộc trong các tiết ngoài giờ lên lớp. Với phương pháp này, học sinh ở các lứa tuổi rất thích. Nó tạo cho lớp học một không khí sôi động "học mà chơi, chơi mà học". Những trò chơi mà giáo viên THCS thường dùng như : ai nhanh hơn, tiếp sức, cánh cửa tri thức, ô chữ bí mật, ai thế nhỉ, rung chuông vàng, mặt cười- mặt khóc, tập làm phóng viên ... Nội dung trò chơi sẽ minh hoạ một cách sinh động các chuẩn mực đạo đức pháp luật, nhờ vậy các mẫu hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt học sinh, tăng cường sự chú ý giúp các em ghi nhớ dễ dàng và bền lâu. Qua trò chơi học sinh được rèn luyện những kỹ năng, những thao tác hành vi đạo đức giúp các em thể hiện được hành vi một cách đúng đắn, tự nhiên, làm tăng khả năng giao tiếp cho bản thân. Bên cạnh đó, học sinh sẽ vận dụng kiến thức đã học vào việc lựa chọn cho mình cách giải quyết, ứng xử tình huống đúng đắn, phù hợp. Giúp học sinh rèn luyện được kỹ năng sống cho bản thân & hình thành năng lực quan sát, được rèn luỵện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của người 6 khác là phù hợp hay không phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Bằng trò chơi, việc luyện tập hành vi đạo đức được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình học tập một cách tự nhiên làm nâng cao hứng thú học tập, giúp các em giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Như vậy, rõ ràng khi sử dụng phương pháp trò chơi cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác đã phát huy một cách tốt nhất tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Bồi dưỡng năng lực tự học, tự khám phá, tự tìm hiểu, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ở học sinh. Không chỉ thế, nó còn tác động trực tiếp đến tình cảm, thái độ đem lại niềm vui, sự hứng thú học tập cho các em, làm cho các em cảm thấy thích thú học tập, yêu môn học, yêu trường lớp hơn. Với tác dụng và hiệu quả mà phương pháp trò chơi mang lại đối với việc dạy và học môn Giáo dục công dân, vấn đề này cũng được một số giáo viên quan tâm nghiên cứu. Giáo viên có thể tổ chức một số trò chơi tạo không khí sôi nổi, gây hứng thú cho học sinh như sau. * Tổ chức trò chơi tiếp sức nhằm củng cố, mở rộng kiến thức: Áp dụng trò chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả học sinh trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu kém. Trò chơi này áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện của những chuẩn mực đạo đức hay pháp luật trong cuộc sống hằng ngày rất nhiều, vì thế các em có thể thảo luận và nêu ra những biểu hiện đó. Cách tiến hành trò chơi: Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân. Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và công bố luật chơi. Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng. Ví dụ: Khi dạy GDCD 9 bài tiết “Tự chủ”. Mỗi nhóm được phát một tập phiếu trắng, các em hãy suy nghĩ và ghi lại những biểu hiện của tính tự chủ và những biểu hiện thiếu tự chủ trong cuộc sống vào phiếu (mỗi phiếu ghi một biểu hiện). Sau đó mỗi nhóm lần lượt từng em lên dán phiếu vào bảng phụ cho phù hợp cột của nhóm mình. Trò chơi 3 phút, nhóm nào tìm được nhiều biểu hiện hơn thì thắng cuộc. 7 Giáo viên tuyên bố kết thúc cuộc chơi, hướng dẫn học sinh nhận xét, góp ý. Giáo viên bổ sung thêm những biểu hiện mà học sinh chưa đề cập đến... * Tổ chức trò chơi sắm vai để khởi động hoặc hình thành kiến thức mới: Sắm vai là một hình thức hợp tác của nghệ thuật sử dụng biểu diễn trực tiếp, thường bao gồm việc các diễn viên trình bày những trải nghiệm của một sự kiện có thật hay tưởng tượng trước những đối tượng khán giả tại chỗ ở một nơi cụ thể. Trò chơi sắm vai trong môn Giáo dục công dân bằng các loại hình nghệ thuật ( chủ yếu là diễn suất, kịch), nhằm mục đích truyền đạt đến đối tượng người xem và nghe những nội dung cơ bản của bài học một cách hiệu quả nhất, hấp dẫn nhất. Trò chơi sắm vai được tổ chức trong hoạt động khởi động hoặc hình thành kiến thức mới, được tích hợp từ nhiều môn như Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân, Âm Nhạc, Mĩ thuật thể hiện thông qua các vở kịch, các tiết mục biểu diễn, hoạt cảnh, cuộc thi tái hiện khái quát lại một nội dung bài học, một chủ đề dạy học, đây là một hình thức tổ chức dạy học rất bổ ích và cần thiết trong quá trình dạy học nói chung, dạy học môn Giáo dục công dân nói riêng. Bởi lẽ đây là dịp để học sinh khắc sâu kiến thức, rèn kĩ năng sống, cách ứng xử, kĩ năng diễn xuất, để đi đến mục tiêu đạt được là giúp học sinh khắc sâu kiến thức, tạo yếu tố say mê, hứng thú, tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập và yêu thích bộ môn Giáo dục công dân hơn. Ví dụ: Khi dạy bài “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình” khai thác nội dung hai mẩu chuyện trong phần “Đặt vấn đề” để làm rõ nội dung quyền và nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, tôi không cho học sinh đọc chuyện mà cho dựng hoạt cảnh. Mục đích và cách thức tổ chức: Trò chơi sắm vai trong môn Giáo dục công dân nhằm tạo cho hoạt động học thêm phần sinh động, hướng đến các mục đích tạo được hứng khởi cho các em học sinh học tập khi các em được trực tiếp “hóa thân” vào các nhân vật. Để tổ chức trò chơi sắm vai giáo viên phải là người định hướng nội dung, hình thức tổ chức. Đối với học sinh: Lựa chọn nội dung, sự kiện, hoạt cảnh, kịch bản liên quan đến nội dung bài học để tập luyện; Chuẩn bị đạo cụ, phục trang .cho phần thể hiện trên sân khấu. 8 Chú ý: Sau khi kết thúc hoạt động giáo viên có nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm động viên khích lệ học sinh thực hiện tốt các hoạt động sau. 1.2.3. Nghiên cứu trường hợp điển hình: Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đôi khi nghiên cứu trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà không phải trên văn bản viết. Các bước nghiên cứu trường hợp điển hình có thể là: * HS đọc (hoặc xem, hoặc nghe) về trường hợp điển hình. Trước khi tìm hiểu nội dung hay vấn đề nào đó trong bài học, giáo viên thường giới thiệu một tình huống thực tế hay một tấm gương điển hình trong xã hội có thể bằng các câu chuyện kể hoặc xem video. Phương pháp này kích thích trí tưởng tưởng, khơi gợi hứng thú học tập cho các em. Suy nghĩ về nó (có thể viết một vài suy nghĩ trước khi thảo luận điều đó với người khác). Ví dụ: Khi học bài “ Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” lớp 7. Giáo viên có thể cho học sinh viết một đoạn văn ngắn nói lên cảm xúc của em về môi trường và thiên nhiên sau chuyến tham quan, du lịch. Thảo luận về trường hợp điển hình theo các câu hỏi hướng dẫn của GV. Đây là phương pháp chủ đạo trong tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân. Qua tình huống hay câu chuyện, học sinh thảo luận theo nội dung câu hỏi mà giáo viên hướng dẫn để rút ra nội dung bài học. Ví dụ: Khi tìm hiểu phần truyện đọc “ Truyện kể từ trang trại” trong bài 10 “ Giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ” lớp 7. Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận theo nội dung câu hỏi: Nhóm 1: Sự lao động cần cù và quyết tâm vượt khó của mọi người trong gia đình ở truyện đọc thể hiện như thế nào? Nhóm 2: Những việc làm nào chứng tỏ nhân vật “tôi” đã giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình? Nhóm 3: Truyền thống gia đình, dòng họ có ảnh hưởng với mỗi con người như thế nào? Em tự hào điều gì về gia đình, dòng họ của mình? 9 Nhóm 4: Chúng ta phải sống như thế nào để xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ? HS: Thảo luận để tìm ra những việc làm, biểu hiện để giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình. Từ đó, rút ra được ý nghĩa và cách rèn luyện của bản thân để gìn giữ truyền thống gia đình, góp phần làm làm phong phú truyền thống, bản sắc dân tộc Việt Nam. Một số lưu ý: Vì trường hợp điển hình được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nên nó phải tương đối phức tạp, với các tuyến nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản. Trường hợp điển hình có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề song phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ học sinh và thời lượng cho phép. Tùy từng trường hợp, có thể tổ chức cho cả lớp cùng nghiên cứu một trường hợp điển hình hoặc phân công mỗi nhóm nghiên cứ
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_hinh_thuc_to_chuc_hoat_dong_ho.doc