Sáng kiến kinh nghiệm Dạy phân hóa môn Tiếng Việt Lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN
Cơ sở lý luận của vấn đề
Xu hướng dạy học phân hóa ở nhiều nước được thực hiện bằng cách định hướng hoặc phân luồng cho học sinh ngay từ cấp tiểu học ở các môn học tự chọn. Các định hướng này tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù hợp với năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất phát từ chức năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân học sinh và trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ có thể có sự phát triển tối đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những khả năng, những nhu cầu, nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách thức phù hợp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học”.“Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên lớp đã có ý thức chuẩn bị công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ nhận thức chung của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.
Dạy học phân hóa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi nhọn", giữa phổ cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện chung đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên trình độ trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để có thể hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung.
MỤC LỤC Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU Mục Tên đề mục Trang I. Đặt vấn đề 2 II. Mục đích nghiên cứu 3 Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Mục Tên đề mục Trang I. Cơ sở lí luận của vấn đề 3 II. Thực trạng của vấn đề 4 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 8 IV. Tính mới của giải pháp 20 V. Hiệu quả của sáng kiến. 21 Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Mục Tên đề mục Trang I. Kết luận 23 II. Kiến nghị 24 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Trong công cuộc đổi mới giáo dục bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành theo ba hướng: Đổi mới sách giáo khoa ở tất cả các cấp học phổ thông, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh. Đi đôi với việc đổi mới SGK, đổi mới chương trình là đổi mới phương pháp dạy học, được tiến hành với phần đông giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Nhiều giáo viên đã thực hiện áp dụng phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và khơi dậy được năng lực học tập thực sự của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu hết các giáo viên chỉ mới quan tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình, nắm được kiến thức cơ bản trong tài liệu hướng dẫn, còn đối tượng học sinh khá giỏi có năng lực tư duy sáng tạo và học sinh có lực học yếu kém còn chưa được quan tâm, bồi dưỡng đúng mức trong giờ học, chưa khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân học sinh. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết và cần được thực hiện ngay ở trong những tiết học đại trà nhằm phát hiện và bồi dưỡng, ươm mầm những tài năng cho đất nước trong tương lai. Không những đảm bảo chất lượng phổ cập đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về Tiếng Việt, Toán và các môn học khác. Từ trước đến nay, đổi mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng đúng mức, hầu hết các giáo viên chỉ dừng ở mức độ trang bị kiến thức cơ bản cho đối tượng học sinh có lực học loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm bồi dưỡng đến đối tượng học sinh khá giỏi. Bởi lẽ họ chưa mạnh dạn, sợ cháy thời gian, không đủ thời gian ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài. Có những giáo viên mặc dù đã dạy theo Mô hình trường học mới nhưng vẫn còn dạy theo cách như đã từng dạy từ mấy chục năm qua, phương pháp đàm thoại là chủ yếu. Ngược lại, một số giáo viên lại chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực sự quan tâm đến sự tiếp thu kiến thức của đối tượng học sinh trung bình và yếu trong lớp, làm cho những học sinh này không hiểu bài và có tư tưởng sợ học, giáo viên không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em ngay trong giờ học chính khóa. Bên cạnh đó là một số phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, giảng giải, vấn đápcòn nhiều mặt hạn chế, chưa khắc phục được nhược điểm này. Vậy câu hỏi đặt ra là cần phải dạy học như thế nào để trong một tiết dạy đảm bảo: bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh khá giỏi, trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình và bồi dưỡng lấp chỗ hổng cho học sinh yếu kém ? Theo tôi, hoàn toàn có thể áp dụng được trong các tiết học Tiếng Việt hoặc các môn khác cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp bằng những hình thức học tập, hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập thích hợp, bằng những biện pháp phân hóa nội tại hợp lý, phù hợp với thực trạng học sinh trong lớp. Qua khảo sát xét thấy tính khả thi và hiệu quả của đề tài rất cao nên trong năm học này, tôi đã mạnh dạn áp dụng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp ba của trường tiểu học Lý Tự Trọng. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: Dạy phân hóa môn Tiếng Việt lớp Ba trong Mô hình trường học mới VNEN. Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, cùng với quá trình tích hợp là phân hóa. Phân hóa là phải dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác nhau. Mỗi người có một năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, sở trường riêng, điều kiện riêng. II. Mục đích nghiên cứu Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt ở lớp Ba để vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác. Nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học phân hoá. Các hình thức dạy học phân hóa. Tại sao phải thực hiện dạy học phân hoá trong giờ Tiếng Việt. Mối quan hệ giữa phương pháp dạy học phân hoá với các phương pháp dạy học khác. Áp dụng dạy học phân hoá vào môn Tiếng Việt cho học sinh như thế nào ? Xác định hệ thống phân hóa các phân môn trong môn Tiếng Việt lớp Ba. Nghiên cứu những sai lầm thường gặp và biện pháp khắc phục cho học sinh trong dạy học môn Tiếng Việt. Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận của vấn đề Xu hướng dạy học phân hóa ở nhiều nước được thực hiện bằng cách định hướng hoặc phân luồng cho học sinh ngay từ cấp tiểu học ở các môn học tự chọn. Các định hướng này tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù hợp với năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất phát từ chức năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân học sinh và trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ có thể có sự phát triển tối đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những khả năng, những nhu cầu, nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách thức phù hợp. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học”.“Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên lớp đã có ý thức chuẩn bị công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ nhận thức chung của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp. Dạy học phân hóa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi nhọn", giữa phổ cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện chung đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên trình độ trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để có thể hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung. II. Thực trạng của vấn đề Mỗi học sinh là một cá nhân có tiềm năng riêng, sở trường riêng, tình cảm và động lực học tập khác nhau mà trong các tiết dạy giáo viên chỉ áp dụng một cách dạy chung cho cùng một đối tượng học sinh thì chính người giáo đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội cho những học sinh khác. Chính vì thế trong các tiết học giáo viên biết áp dụng tốt các biện pháp phân hóa đồng thời có nhiệm vụ rõ ràng, phù hợp với từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng học sinh sẽ giúp các em phát triển tối đa năng lực cá nhân của bản thân. Dạy học phân hóa tốt sẽ đáp ứng và phát huy được nguyện vọng, sở trường và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân khác nhau. Dạy học phân hóa trong giờ Tiếng Việt càng giúp học sinh có nhiều cơ hội để phát triển. Mỗi cá nhân dù ở bất kì nhóm đối tượng nào đều có cơ hội để phát huy hết sở trường của bản thân. Tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của học sinh năng khiếu. Loại trừ được tình trạng quá tải đối với học sinh yếu kém. Giúp học sinh nắm được một cách chính xác,vững chắc có hệ thống những kiến thức và kỹ năng môn Tiếng Việt. Có năng lực vận dụng những tri thức đó vào các tình huống khác nhau trong cuộc sống. Phát triển những năng lực phẩm chất trí tuệ, giúp cho học sinh biến những phẩm chất thu nhận được thành phẩm chất của bản thân mình, thành công cụ để nhận thức và hành động đúng đắn trong các lĩnh vực hoạt động học tập các môn học khác, trong cuộc sống thường ngày. Giáo dục cho học sinh về tư tưởng, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ của người công dân yêu nước trung thực và giản dị. Phát triển ở mỗi học sinh khả năng học tập, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng sớm cho học sinh có năng khiếu về môn Tiếng Việt, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước một cách chân thành qua môn Tiếng Việt. Giáo dục phẩm chất đạo đức thẩm mỹ đúng đắn phù hợp với con người Việt Nam trong thời đại hiện nay. Trong các phương pháp giảng dạy Tiếng Việt thì phương pháp dạy học phân hóa là một phương pháp khá hiệu quả. Trong giờ học Tiếng Việt, việc bảo đảm thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả các đối tượng học sinh, khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân là yêu cầu vô cùng quan trọng mà dạy học phân hóa đã đạt được. Dạy học phân hóa phát huy tốt khả năng cá thể hóa hoạt động của học sinh, đưa học sinh trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với năng lực nhận thức của bản thân. Bên cạnh đó giáo viên có cơ hội hiểu và nắm được mức độ nhận thức của từng cá thể học sinh để đề ra những biện pháp tác động, uốn nắn kịp thời và có đánh giá một cách chính xác, khách quan. Dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học sinh, xóa bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có nhịp độ nhận thức thấp cùng tham gia tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài. Kích thích, gây hứng thú học tập cho các đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình. Không gây cảm giác nhàm chán cho học sinh khá giỏi. Dạy học phân hóa trong giờ dạy Tiếng Việt dễ dàng thực hiện, không gây khó khăn, trở ngại cho giáo viên trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành giảng dạy. Không nhất thiết đòi hỏi cần có các phương tiện thiết bị hiện đại kèm theo, phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất của nhà trường. Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt theo Mô hình trường học mới xóa bỏ mặc cảm, khoảng cách giữa học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi, đưa các em sít lại gần nhau hơn qua sự tác động tình cảm trong các giờ học Tiếng Việt. Tạo điều kiện cho đối tượng học sinh yếu kém học hỏi, thảo luận với học sinh khá giỏi. Các em có cơ hội giúp đỡ nhau cùng phát triển, tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức của giờ học. Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở trường được thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu hết các giáo viên đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và thực hiện lên kế hoạch bài dạy đều đặn. Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề ra kế hoạch dạy học phù hợp với thực tế của nhà trường, có những quyết định đúng, kịp thời, tổ chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi trọng việc phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ sở năng lực, hoàn cảnh, nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Hàng năm đều tổ chức bồi dưỡng cho GV về chuyên môn, nghiệp vụ như việc thực hiện chương trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học Việc dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả bài giảng theo quan điểm phân hóa đã được tổ chức. Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên. Dự giờ, thống nhất nội dung bài giảng theo quan điểm phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy. Duy trì chế độ kiểm tra, thanh tra chuyên môn, phối hợp với các tổ chức như công đoàn, đội để kiểm tra đánh giá việc thực hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu năm học. Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết trong công tác giáo dục. Hầu hết trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trong đó chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy học, trang bị cho GV một số kỹ thuật dạy học tích cực đáp ứng yêu cầu dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa. Thế nhưng trên thực tế dạy học, đại đa số giáo viên chỉ áp dụng hình thức , phương thức tổ chức ở các tiết dạy chỉ cho cùng một đối tượng học sinh mà thôi. Vì nhiều khi áp dụng phương pháp dạy học phân hóa nhược điểm cơ bản của đại đa số giáo viên là trước khi lên lớp phải chuẩn bị bài soạn, hệ thống bài tập phân hóa, đầu tư mất nhiều thời gian công sức. Tổ chức lớp học hiện nay hầu hết đều có số học sinh đông, bàn ghế chưa phù hợp với Mô hình dạy học mới, chênh lệch nhiều về trình độ có thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, giáo viên dạy thay có thể chưa kịp nắm được trình độ nhận thức của từng học sinh. Nề nếp, thói quen học tập ở một số lớp không ổn định khi không có giáo viên chủ nhiệm nên phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng những tiết học khác. Nhiều khi ở các tiết dạy tăng cường giáo viên chưa thật sự mạnh dạn, linh hoạt trong việc xây dựng nội dung. Các nội dung trong tiết dạy còn cơ cấu cứng ở môn tự chọn, năng khiếu nên việc điều chỉnh thời lượng khó thực hiện được. Mặc dù giáo viên rất tâm huyết với nghề, rất yêu trẻ nhưng chưa thật sự gần gũi, thân thiện, chưa thuyết phục học sinh bằng tình cảm, chưa tạo niềm tin cũng như hứng thú trong học tập, nhu cầu học tập cho trẻ nhất là học sinh yếu. Việc tổ chức các hoạt động sôi nổi trong các tiết học cho học sinh còn hạn chế nên học sinh không có hứng thú học tập, không tập trung vào hoạt động học. Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu, cá biệt,..), sĩ số lớp đông nên khi thiết kế bài dạy giáo viên mất nhiều thời gian, gặp khó khăn. Còn một bộ phận học sinh yếu, gia đình không quan tâm, bất hòa nên các em chán học, ngại học, ỷ lại làm ảnh hưởng đến nề nếp và không khí lớp học. Mặc khác trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại được từng đối tượng HS để từ đó mới có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Kế hoạch dạy học phải chi tiết, cụ thể cho từng đối tượng HS, do đó GV cảm thấy vất vả hơn khi lập kế hoạch dạy học. Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc thiết kế các tiết dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến HS yếu, không có thời gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của bản thân; HS giỏi, khá dễ bị nhàm chán. Việc sử dụng phương tiện dạy học còn hạn chế do trình độ sử dụng của giáo viên chưa linh hoạt, tự tin. Theo kết quả khảo sát của HS lớp 3B, trường TH Lý Tự Trọng năm học 2017 – 2018 và năm học 2018 - 2019 vào tháng 9 nêu lên thực trạng về các tiết học theo phương pháp dạy học đại trà. Lớp TSHS Năm học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 3B 31 2017 - 2018 0 22 em 9 em 0 71.0 % 29.0% 3B 33 2018 - 2019 2 em 25 em 6 em 6.1% 75.8% 18.1% Qua kết quả khảo sát, có thể khẳng định rằng thực trạng về việc dạy học cho cùng một đối tượng HS không đạt hiệu quả cao. Theo kết quả trên, tỉ lệ HS trung bình và yếu kém chiếm tỉ lệ khá cao. Bên cạnh đó, nhiều HS vẫn ngại học, không có động lực và hứng thú học tập trong các tiết học. Nguyên nhân một phần là do các em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em có cùng một nhiệm vụ học tập nên nhiều khi học sinh khá giỏi hoàn thành nhiệm vụ ttrước, nhanh, không được giao nhiệm vụ tiếp theo nên các em thấy tiết học quá dễ dãi, nhàm chán. Ngược lại những học sinh yếu kém thì cảm thấy áp lực với một số yêu cầu quá sức của bản thân.. Do vậy, vai trò của người GV trong việc dạy học phân hóa cho phù hợp với nhận thức của các đối tượng học sinh giúp các em đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học và có khả năng phát triển năng lực sở trường của bản thân nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học là hết sức quan trọng. Đại đa số bộ phận GV đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới dạy học và dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Song họ vẫn thực hiện dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa theo kinh nghiệm truyền thống. Nội dung chương trình một số phần của môn học đôi chỗ chưa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Phân phối chương trình đôi chỗ còn chưa phù hợp (lượng kiến thức của một số bài chưa phù hợp). Nhiều giáo viên chưa có thói quen phân hóa các đối tượng học sinh trong tiết dạy. Nội dung tiết dạy thiết kế chưa phù hợp với tình hình thực tế và các đối tượng học sinh của lớp. Thêm nữa họ chưa được bồi dưỡng qui trình dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa một cách có hệ thống, bài bản. Sự phối hợp giữa học sinh, gia đình và nhà trường trong việc tìm hiểu năng lực và nguyện vọng cũng như quản lý học tập của học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Học sinh còn lúng túng chưa quen với phương pháp học tập chủ động, tích cực. Một số nội dung của môn học còn tương đối khó so với trình độ nhận thức của HS, điều này gây quá tải với HS, nhất là với những HS đồng bào, HS yếu kém. Ngược lại nội dung học tập trong tài liệu học tập chưa được thiết kế theo hướng dạy học phân hóa các đối tượng học sinh, chưa có nội dung dành cho học sinh khá giỏi. Một số giáo viên còn hạn chế về năng lực thật sự. Chưa thực sự dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, vị trí của mình trong giai đoạn mới. Môi trường làm việc của giáo viên cũng như môi trường học tập của học sinh chưa đáp ứng với mô hình dạy học mới. Một số GV chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng về chuẩn kiến thức, kỹ năng đã quy định trong giảng dạy. Đời sống kinh tế của một số học sinh còn khó khăn, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của gia đình, gia đình chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất về thời gian cũng như đầu tư phương tiện học tập (đặc biệt là học sinh sống xa gia đình, bố mẹ đi làm ăn xa) nên họ chưa dành nhiều thời gian cho việc đáp ứng các hoạt động ứng dụng của con em tại gia đình, do đó ảnh hưởng đến chất lượng dạy học. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Tôi hy vọng qua sáng kiến này giúp cho đồng nghiệp thấy được tầm quan trọng của việc dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Có cái nhìn sâu hơn về việc dạy học phân hóa cho học sinh. Hiểu được lợi ích to lớn mà học sinh có được qua các giờ học phân hóa. Thay đổi suy nghĩ về cách tổ chức dạy học đồng loạt cho cùng một đối tượng học sinh. Góp phần cung cấp, hỗ trợ thêm cho giáo viên những phương pháp, kĩ năng, kĩ thuật dạy học phân hóa trong các tiết dạy. Giúp cho đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của bản thân. Học sinh yếu kém có cơ hội phấn đấu vươn lên trong học tập. Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí, sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các em mà tìm cách dạy cho phù hợp. Khi dạy học phân hóa tôi thường lấy trình độ phát triển chung của h
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_day_phan_hoa_mon_tieng_viet_lop_ba_tro.doc