Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh Lớp 1 có chữ viết đúng, viết đẹp

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh Lớp 1 có chữ viết đúng, viết đẹp

a/ Cơ sở lý luận:

Tiểu học là bậc học nền tảng của nền giáo dục, lớp một là nền móng của bậc tiểu học. Dạy Tiếng Việt lớp 1 có nhiệm vụ rất lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa mở cánh cửa tri thức để các em biết đọc, biết viết, biết vận dụng chữ viết khi học tập. Chữ viết là công cụ cho các em sử dụng suốt đời. Đọc thông, viết thạo gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời. Song người xưa nói: “Nét chữ - Nết người”, nhận xét này nói lên tầm quan trọng của việc rèn chữ viết bên cạnh việc rèn đọc cho học sinh Tiểu học. Dạy cho các em viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là giúp các em có được đức tính cần cù, cẩn thận và lòng tự trọng đối với bản thân cũng như đối với thầy cô giáo và bạn khi đọc bài vở của mình.

 Khi nói đến học sinh Tiểu học, người ta thường chú ý đến học sinh đầu cấp là nền móng ban đầu mới đào tạo. Vì vậy giáo viên cần rèn luyện cho học sinh chữ viết đúng, viết đẹp. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.

 b/ Cơ sở thực tiễn:

 Với tình hình hiện nay, đa số các em nói chung, đặc biệt đối với lớp Một nói riêng hầu như các em chưa có ý thức trong việc rèn chữ, giữ vở. Chữ viết chưa đúng mẩu, chưa đều và chưa đẹp. Xuất phát từ đây tôi quyết định chọn đề tài: “ Một số kinh nghiệm dạy học sinh lớp Một có chữ viết đúng, viết đẹp.”

 

doc 18 trang hoathepmc36 26/02/2022 9200
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học sinh Lớp 1 có chữ viết đúng, viết đẹp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
I. Lí do chọn đề tài: ..Trang 3
	1) Đặt vấn đề Trang 3
	2) Mục đích đề tài Trang 3
	3) Lịch sử đề tài Trang 4
	4) Phạm vi đề tài .......Trang 4
II. Nội dung công việc đã làm: .Trang 5
Thực trạng đề tài ......Trang 5
Nội dung giải quyết .....Trang 6
Biện pháp giải quyết Trang 6
Kết quả chuyển biến của đối tượngTrang 15
III. Kết luận: Trang 17
Tóm lược giải pháp ...Trang 17
Đối tượng áp dụng .Trang 18
IV. Ý kiến đề xuất: ..Trang 19 
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
I. Nhận xét đánh giá của Hội Đồng KHGD trường:
	Tác dụng của SKKN:.........................
..
	Tính thực tiễn, sư phạm, khoa học: ..
.
	Hiệu quả: ..
	Xếp loại: ..
	.., ngày . tháng . năm ........
II. Nhận xét đánh giá của Hội Đồng KHGD phòng GD-ĐT:
	Tác dụng của SKKN: 
.
	Tính thực tiễn, sư phạm, khoa học: ..
.
	Hiệu quả: ..
	Xếp loại: ..
	.., ngày .tháng..năm
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 	 1.Đặt vấn đề:
 	a/ Cơ sở lý luận:
Tiểu học là bậc học nền tảng của nền giáo dục, lớp một là nền móng của bậc tiểu học. Dạy Tiếng Việt lớp 1 có nhiệm vụ rất lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa mở cánh cửa tri thức để các em biết đọc, biết viết, biết vận dụng chữ viết khi học tập. Chữ viết là công cụ cho các em sử dụng suốt đời. Đọc thông, viết thạo gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời. Song người xưa nói: “Nét chữ - Nết người”, nhận xét này nói lên tầm quan trọng của việc rèn chữ viết bên cạnh việc rèn đọc cho học sinh Tiểu học. Dạy cho các em viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là giúp các em có được đức tính cần cù, cẩn thận và lòng tự trọng đối với bản thân cũng như đối với thầy cô giáo và bạn khi đọc bài vở của mình.
 	 Khi nói đến học sinh Tiểu học, người ta thường chú ý đến học sinh đầu cấp là nền móng ban đầu mới đào tạo. Vì vậy giáo viên cần rèn luyện cho học sinh chữ viết đúng, viết đẹp. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh.
 	 b/ Cơ sở thực tiễn: 
 	Với tình hình hiện nay, đa số các em nói chung, đặc biệt đối với lớp Một nói riêng hầu như các em chưa có ý thức trong việc rèn chữ, giữ vở. Chữ viết chưa đúng mẩu, chưa đều và chưa đẹp. Xuất phát từ đây tôi quyết định chọn đề tài: “ Một số kinh nghiệm dạy học sinh lớp Một có chữ viết đúng, viết đẹp.” 
 	2. Mục đích đề tài:
 	Với đề tài này, tôi mong muốn làm sao cho các em có chữ viết đúng mẫu, đúng cỡ chữ, đúng chính tả, chữ viết đẹp, đều nét, thẳng hàng, tập vở trình bày sạch sẽ và khoa học. Muốn vậy đòi hỏi người giáo viện phải có kinh nghiệm, phải lựa chọn những giải pháp tốt nhất để gây hứng thú cho người học. Về phía học sinh cần có sự nỗ lực, kiên trì trong luyện viết. Từ đó các em có chữ viết đúng, viết đẹp. Có như thế sẽ giúp các em làm nền tảng vững chắc để học các lớp về sau.
 	3. Lịch sử đề tài:
Đây là đề tài mới của bản thân được nghiên cứu từ năm học 2019-2020 và năm học 2020-2021 tôi mạnh dạng áp dụng vào thực thế của đơn vị cho đến nay.
 	 4. Phạm vi đề tài:
Việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học là rất cần thiết bởi vì nó nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Xong đề tài này chỉ thực hiện nghiên cứu “Một số kinh nghiệm dạy học sinh lớp Một có chữ viết đúng, viết đẹp”. 
II. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM
 	1. Thực trạng đề tài:
Sau 2 tuần thực học tôi tìm hiểu thấy trong quá trình luyện viết của các em còn gặp rất nhiều khó khăn và thuận lợi. 
 	a/ Về thuận lợi:
- Đa số các em đều qua mẫu giáo.
- Sĩ số lớp vừa, nên thuận lợi trong việc quản lí và đi sâu sát học sinh.
- Cơ sở vật chất tốt, bàn ghế đúng kích cỡ, đủ ánh sáng, không gian thoáng mát.
- Ban giám hiệu quan tâm sâu sát tạo cơ sở tốt cho lớp học.
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của các em, các em có đầy đủ đồ dùng học tập.
 	b/ Khó khăn:
- Đa số các em chưa có ý thức rèn chữ và giữ vở, cần đến sự nhắc nhở nhiều của giáo viên.
- Một số em viết chữ ẩu, nguệch ngoạc không đúng nét.
- Các em cầm bút còn yếu, cầm sát ngòi, cầm chặt quá, ngồi chưa đúng tư thế, chưa biết cách để vở.
- Còn một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của các em.
- Phụ huynh chưa nắm được cấu tạo chữ viết theo chương trình mới.
 	* Những tồn tại trên là do những nguyên nhân sau:
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn cha mẹ đi làm nên không có thời gian quan tâm đến các em trong việc học.
- Giáo viên chưa hướng dẫn tỉ mĩ trong quá trình luyện viết chữ.
- Một số học sinh có thói quen viết ẩu, viết nhanh.
 	Thống kê cho thấy kết quả như sau: 
2. Nội dung giải quyết:
 	Từ thực tế ở lớp, tôi nhận thấy giáo viên cần rèn luyện cho học sinh viết đúng chữ mẫu, đúng cỡ chữ, đúng chính tả, đều nét, tập viết trình bày sạch sẽ và khoa học là một việc làm thiết thực. Để khắc phục tình hình nêu trên: 
- Giáo viên cần rèn luyện chữ viết và phương pháp trình bày bảng.
- Tổ chức họp phụ huynh học sinh vào đầu năm.
- Cần tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh.
- Giáo viên cần hướng dẫn cơ bản, tỉ mĩ khi luyện viết chữ.
- Cần rèn luyện tính chuẩn mực, chính xác, cẩn thận, tính thẩm mĩ và khoa học.
- Rèn luyện cho học sinh luyện viết ở nhà.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tư thế ngồi và cách để vở.
 	3. Biện pháp giải quyết:
 	Để giải quyết những vấn đề nêu trên, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục chung cho cả lớp theo chương trình quy định, áp dụng phương pháp phổ biến và đặc trưng của bộ môn, tôi còn đưa ra các biện pháp sau:
 	3.1/ Tổ chức họp phụ huynh học sinh vào đầu năm học:
 	Muốn cho các em có chữ viết đúng, viết đẹp thì không chỉ có sự giáo dục từ một phía nhà trường mà cần phải có sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình. Do đó công tác tuyên truyền về mẫu chữ viết đến phụ huynh là việc làm rất cần thiết.
 	 Để rèn luyện chữ viết cho các em tôi đề nghị phụ huynh mua cùng một loại bảng con có kẻ sẵn các đường kẻ ô li và tập 4 ô li để học sinh dễ viết ( Giáo viên đưa bảng và tập mẫu cho phụ huynh xem ).
 	Giáo viên tuyên truyền đến phụ huynh biết vở như thế nào gọi là sạch, chữ như thế nào gọi là đúng mẫu và đẹp.
 	Vở được bao bìa dán nhãn cẩn thận không làm rách vở, nhàu nát, không để quăn góc, không giây mực ra vở, không bôi xóa nhiều, trình bày đúng quy định, không bỏ trống giấy. Những quyển vở nói trên được gọi là vở sạch.
 	Chữ được gọi là đúng mẩu và đẹp thì phải đúng cỡ chữ, đúng mẫu, cách nối nét đúng, chữ viết mềm mại, đặt dấu thanh đúng chỗ, khoảng cách các con chữ và độ rộng của con chữ đúng quy định. 
 	3.3/ Giáo viên cần tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của từng học sinh.
 	Đối với những em có trí nhớ chậm, cầm bút, cầm phấn không đúng quy cách chữ viết nguệch ngoạc, chưa thẳng hàng. Với phương pháp quan sát và luyện tập tôi tích cực hướng dẫn khuyến khích và động viên các em cách cầm bút và rèn luyện chữ viết sao cho thẳng hàng, đứng cỡ chữ.
 	Giáo viên dạy học sinh cách cầm bút vừa chặt không để tuột bút, không co thắt cơ tay, cùng với ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa để cầm bút, hai ngón còn lại và phần của bàn tay dùng làm chỗ tựa khi viết. Ngón trỏ để cách khoảng đầu bút một đốt ngón tay.
 	3.1/ Rèn luyện chữ viết và phương pháp trình bày bảng của giáo viên:
 	* Chữ mẫu do giáo viên viết trên bảng lớp:
 	Trong giờ dạy, chữ mẫu của giáo viên là trực quan sống cho học sinh nhìn thấy sự liên kết giữa các con chữ, cách điều tiết cứng mềm của từng con chữ. Vừa viết vừa giảng giải, chữ mẫu trên bảng của cô giáo phải vừa đẹp vừa mềm mại, nhịp nhàng với lời nói, đồng thời tư thế đứng của cô giáo cũng phải hợp lý để học sinh theo dõi được cả quy trình viết.
 	Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp giáo viên phải cô đọng, chọn lọc những con chữ, nét nối tiêu biểu để hướng dẫn tỉ mĩ, chính xác cho học sinh, không nên tham lam viết và hướng dẫn nhiều gây rối mắt.
 	* Chữ mẫu trong vở mẫu của giáo viên:
 	Đối với học sinh Tiểu học, chữ mẫu phải được cụ thể hóa nhất là đối với học sinh lớp Một. Khi học sinh được quan sát bài mẫu của cô giáo, các em lập tức nảy sinh ý định bắt chước, muốn mình viết đẹp được như cô giáo. Mặt khác, chữ viết trong vở mẫu của giáo viên là sự tổng hợp của nội dung bài học, nó gần với bài viết của các em, giúp các em dễ dàng tiếp thu từng dòng, từng chữ của bài học.
 	 Ngoài chữ mẫu của cô giáo, giáo viên có thể sử dụng những bài viết đẹp của những học sinh để làm mẫu cho các em, giúp các em mở mang kiến thức ngoài bài học trên lớp của cô. Đó chính là “Học thầy không tày học bạn”.
 	* Chữ mẫu trong vở mẫu của giáo viên là chuẩn mực chưa đủ, chữ mẫu của cô giáo phải mọi lúc, mọi nơi khi nhận xét bài vào vở, khi viết bảng cả những môn học khác, những lời dặn dò đối với học sinh cũng phải là mẫu mực.
 	Tại sao như vậy ?
- Vì trẻ tiểu học luôn coi thầy cô giáo như một tấm gương sáng, soi vào đó ta thấy tâm hồn của trẻ thơ ngây và trong trẻo vô cùng. Nếu thầy cô giáo ẩu, viết cẩu thả khi phê vở cho trẻ, chính là đã vô tình làm mờ đi cái gương trong sáng ấy, đã biến mình thành một ví dụ xấu cho trẻ bắt chước. Không ít học sinh khi viết vở Tập viết, Chính tả rất cẩn thận nhưng viết bài ở những môn học khác thì rất ẩu.
- Lý do rất đơn giản, vì các cháu thấy cô giáo chỉ quan tâm đến chữ viết trong 2 quyển vở ấy.
- Muốn cho học sinh viết đúng, viết đẹp thì thầy phải luôn luôn viết đúng, viết đẹp. 
 	3.4/ Giáo viên cần hướng dẫn tỉ mĩ về cách viết các chữ, vần; cách viết đúng chính tả, cách trình bày tập, tư thế ngồi và cách để vở,
- Giai đoạn chuẩn bị:
 	Trước tiên giáo viên hướng dẫn cho các em xem một vài quyển vở mẫu của các anh chị học năm trước có ý thức tốt trong việc rèn chữ và giữ vở. Từ đó giáo dục các em thế nào là “ VSCĐ”.
+ Về vở: Vở được gọi là sạch, tốt là vở được bao bìa dán nhãn cẩn thận. Không bị rách, nhàu góc, quăn góc. Không giây mực ra vở, không bôi xóa nhiều. Trình bày đúng quy định, không bỏ trống giấy.
 + Về chữ: Chữ gọi là đẹp phải đúng cỡ chữ, đúng mẫu, cách nối nét đúng, mềm mại, đặt dấu thanh đúng vị trí, khoảng cách và độ rộng của các con chữ đúng quy định. 
- Giai đoạn sử dụng bút chì:
 	Ở giai đoạn này nên cho học sinh sử dụng bút chì 2B mềm dễ viết và chuốt nhọn khi viết, khi tẩy không có vết bẩn .
- Giai đoạn sử dụng bút mực: Giáo viên quy định học sinh sử dụng cùng một màu mực. Trên bút có dán tên để không lầm lẫn với nhau.
 	 Sau đây là các phương pháp khi dạy:
Phương pháp trực quan:
 	 Chữ mẫu: Biểu tượng trực quan trong tất cả giờ dạy tập viết.
 	 Trẻ tiểu học tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Khi viết các em phải tái hiện hình ảnh chữ viết đã tiếp thu được qua mắt nhìn lần đầu để ghi lại hình ảnh chữ viết đã nhìn được trên mặt giấy.
 	Vì vậy nếu chữ mẫu được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc dưới ánh sáng kém, thì các em rất khó nhìn dẫn đến khó tái hiện. Từ đó nếu trình bày mẫu chữ (mẫu chữ đơn bằng bìa) trên bảng lớp, giáo viên phải phóng to, các đường kẻ ô rõ ràng, đúng các nét để học sinh nắm được cấu tạo, kích thước của chữ.
 	Nếu trong bài viết có nhiều chữ cái hoặc nhiều vần khác nhau thì cần phải có đủ mẫu cho học sinh quan sát để nhận xét sự giống và khác nhau đó.
 	Ví dụ:	 ô-ơ; n – m.
	 Sách Tập viết 1.
 	Từ chữ mẫu rời của từng cặp ô - ơ; n – m, học sinh nêu được kích thước, hình dáng của chúng, nhận xét sự giống nhau và khác nhau giữa từng cặp.
 	Hình dáng: ô - ơ đều gồm một nét cong kín.
	ô có thêm 1 dấu mũ gồm 2 nét chéo phải chéo trái hợp lại.
ơ gồm 1 nét cong kín thêm 1 nét móc nhỏ trên đầu.
	n gồm 2 nét là nét móc xuôi và nét móc 2 đầu.
	m gồm 2 nét móc xuôi, 1 nét móc 2 đầu.
 	Cấu tạo của các cặp chữ trên tương đối giống nhau dẫn đến cách viết cũng tương tự. Giáo viên có thể cho học sinh nhận xét cả cách viết.
 	Ví dụ: Muốn viết ô - ơ ta phải viết 1 nét cong kín, đặt bút ở góc phải khung hình, dưới dòng kẻ 4, sau đó viết thêm một dấu phụ.
	Muốn viết m – n ta đặt bút ở dưới dòng kẻ 3, viết nét móc xuôi sau đó viết nét móc 2 đầu (chữ n) hoặc viết tiếp nét móc xuôi nữa rồi viết móc 2 đầu (chữ m).
Phương pháp phân tích - đàm thoại gợi mở:
 	Để chữ viết đẹp, không bị vụn, gẫy và rời, trong quá trình dạy viết giáo viên cần phân tích cấu tạo chữ để hướng dẫn cách uốn nét, lia bút.
 	Ví dụ:
- Chữ n gồm 1 nét móc xuôi kết hợp với 1 nét móc 2 đầu.
- Chữ u: nét hất kết hợp với nét móc ngược kết hợp tiếp với nét móc ngược thứ hai.
- Chữ mẹ: chữ m nối liền với chữ e và thêm dấu thanh nặng ở dưới chữ e
 	Muốn phân tích được cấu tạo chữ và cách viết, giáo viên phải sử dụng phương pháp đàm thoại gợi mở. Phương pháp này thường được sử dụng ở phần đầu tiết học, sau khi đưa chữ mẫu phóng to trên bìa dán. Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi dẫn dắt để học sinh phân tích được hình dáng, kích thước, cấu tạo và cách viết của chữ.
 	Ví dụ: 
 	Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi như sau:
- Chữ y nằm trong khung hình gì?
- Cao mấy ô? Rộng mấy ô?
- Chữ y gồm mấy nét? Là những nét nào?
- Điểm đặt bút của chữ y giống điểm đặt bút của chữ nào mình đã học?
- Chữ tr gồm mấy con chữ ghép lại?
- Chiều cao, độ rộng của chữ là mấy ô?
- Nét nối giữa t và r là bao nhiêu?
 	Đối với những chữ khó, giáo viên có thể phô tô mẫu cho học sinh thảo luận nhóm, sau đó lên chỉ trên hình để phân tích. Thảo luận nhóm có cái hay là học sinh được đóng góp xây dựng ý kiến cho nhau nên dễ dàng tìm ra tri thức mới. Song trước khi thảo luận nhóm, giáo viên phải ra câu hỏi định hướng cho học sinh.
Phương pháp giảng giải:
 	 Để học sinh viết đúng, viết đẹp tôi kẻ hàng sẵn ở bảng lớp, những dòng kẻ đường kẻ giống ở vở viết học sinh. Sau đó tôi hướng dẫn học sinh phân biệt đâu là dòng kẻ và đường kẻ. 
	Đường kẻ
 Dòng kẻ 
 	Giáo viên cần cho học sinh nắm được hệ thống các nét cơ bản để khi viết học sinh biết vận các nét cơ bản một cách hài hòa.
 Thẳng đứng 	 ½	Thẳng xiên phải /
 Thẳng ngang ¾	Thẳng xiên trái \
 Cong kín O	 	Cong hở phải C	 Cong hở trái 
 Các loại nét phối hợp: Nét móc xuôi, nét móc ngược
 Nét móc 2 đầu
 Nét thắt đầu, nét thắt giữa
 Nét khuyết trên, nét khuyết dưới
 	Ví dụ: Khi viết vần uông ta đặt bút ở đường kẻ thứ hai và viết liền mạch các chữ cái thành uong chú ý điểm kết thúc của bút nằm trên đường kẻ thứ hai, sau đó bỏ dấu mũ trên o thành uông.
uông uông 
 	Viết tiếng ruộng: Điểm đặt bút trên đường kẻ thứ nhất và viết liền mạch các chữ cái thành ruông, điểm kết thúc của bút nằm trên đường kẻ thứ hai, sau đó bỏ dấu mũ trên o và thanh nặng dưới ô.
ruộng ruộng 
 	 Muốn dạy cho học sinh viết đúng các hình chữ cái, thông thường giáo viên cần hướng dẫn để các em nắm được cấu tạo, quy trình viết bao gồm:
	. Điểm bắt đầu và kết thúc của chữ.
	. Điểm tiếp xúc với nét của khung chữ.	
Phương pháp luyện tập:
 	Dân gian ta có câu: “Văn ôn võ luyện” và “Trăm hay không bằng tay quen” quả đúng không sai. Đối với môn Tập viết thì càng đúng như vậy.
 	 Đối với trẻ lớp 1 tay còn mềm, yếu, cầm bút các em vẫn sợ rơi, chóng mỏi mệt thì quá trình rèn chữ của giáo viên phải kiên trì, nhẫn nại, tăng dần yêu cầu, không đòi hỏi quá khó với các em. Có thể luyện tập bằng nhiều phương tiện.
+ Luyện bảng con:
 	Với trẻ em lớp 1, viết bảng con không kém phần quan trọng, bảng con khi viết có thể xóa, lau, sửa nét dễ dàng. Khi học sinh luyện viết bảng con giáo viên có thể cầm tay từng em khi học những bài đầu, sau đó mới thả dần dần cho các em tự viết, khi viết đã cứng tay, giáo viên cần hướng dẫn cả việc lau bảng cho các em. 
+ Luyện viết trong vở tập viết:
 	Muốn học sinh viết đẹp giáo viên phải làm tốt khâu chuẩn bị bút, tẩy và vở cho học sinh.
 	Nếu học sinh viết bút chì thì giáo viên phải kiểm tra đầu nhọn và gọt bút cho đồng đều. Nếu học sinh viết bút mực thì cô giáo phải kiểm tra mực và lau sạch bút cho các em, trong vở phải có giấy kê tay hoặc giấy thấm.
 	Trước khi viết vở học sinh phải được quan sát vở mẫu của cô giáo.
 	* Trong tất cả các quá trình luyện viết, người giáo viên phải luôn chú ý nhắc nhở học sinh.
- Tư thế ngồi học
- Tay cầm bút
- Quan sát trực tiếp, nhắc nhở và sửa sai cho từng em, nếu nhiều em sai thì phải sửa chung cho cả lớp để học sinh rút kinh nghiệm kịp thời.
- Viết mẫu vào vở rèn chữ cho học sinh kém viết thêm.
- Luôn động viên tuyên dương những em viết đẹp, khuyến khích những có cố gắng.
- Khuyến khích học sinh hăng hái phát biểu, nhận xét bài của bạn để tìm ra cái sai để sửa cho bạn.
- Khi học sinh viết ở bảng con hay ở vở cũng phải tuân theo hiệu lệnh của giáo viên cho nhịp nhàng, cẩn thận.
- Ngoài luyện viết ở bảng, ở vở Tập viết giáo viên cần nhắc nhở các em viết đẹp ở tất cả các môn khác nữa .
 	Ví dụ: Khi học môn toán tôi cũng hướng dẫn các em cách viết số và trình bày cho đẹp và khoa học.
 	Về phần viết số yêu cầu học sinh viết đúng số theo sự hướng dẫn của giáo viên, đúng chiều cao, viết số rõ ràng.
2 2 2 2 2
 	Khi trình bày một phép tính cộng hoặc trừ giáo viên hướng dẫn học sinh cách viết giữa các số và phép tính cách nhau một ô vuông.
	Ví dụ:
2
+
3
=
5
 	Khi trình bày điền dấu hoặc điền số vào ô vuông giáo viên cho học sinh vẽ ô vuông bằng ô vuông của vở viết để khi điền số hoặc điến dấu cho tiện và phép tính ở dưới phải thẳng với phép tính ở trên và cách nhau một ô vuông.
 2 + = 3
 + 3 = 6
 	 Thêm vào đó, tôi thường xuyên liên hệ với phụ huynh để cùng hợp tác nhắc nhở cho các bài viết ở nhà cho các em vì rèn chữ không chỉ một ngày, một buổi mà phải luyện trong suốt quá trình học tập của tất cả các phân môn, cả ở trường, lẫn ở nhà.
 	3.5/ Rèn luyện cho học sinh luyện viết ở nhà:
 	 Mục đích của việc luyện viết ở nhà là giúp học sinh hình thành kĩ năng viết nhanh, viết đẹp và đúng chính tả. Do vậy khi dạy và luyện chữ viết cho học sinh giáo viên cần chú trong phương pháp thực hành, giúp học sinh hình thành và trau dồi kĩ năng viết chữ. Ngoài vở tập viết ở lớp giáo viên khuyến khích học sinh luyện viết ở nhà. Sau đó mỗi ngày giáo viên đều kiểm tra lại sửa chữa. Nhờ vậy mà chữ viết các em có tiến bộ hơn nhiều.
3.6/ Bên cạnh đó giáo viên còn rèn luyện cho học sinh tính chuẩn mực chính xác, cẩn thận, tính thẩm mĩ và khoa học.
 	Để làm được điều này giáo viên bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong việc rèn luyện chữ viết như: lòng sai mê, ý chí quyết tâm, tính cẩn thận, chính xác và óc thẩm mĩ,tạo được hứng thú cho học sinh hăng sai tập viết và ý thức viết đúng viết đẹp.
 	Khi viết chữ cần giữ vở sạch sẽ, góc trang giấy không bị cuốn lại. Mỗi học sinh đều có tờ giấy lót tay để không bẩn vở.
Ngoài ra giáo viên tổ chức phong trào “ Vở sạch chữ đẹp” ở lớp đẩy mạnh phong trào “ Vở sạch chữ đẹp” ở trường.
 	3.7/ Giáo viên hướng dẫn học sinh tư thế ngồi và cách để vở
 	Để giúp các em viết chữ đẹp đòi hỏi:
 	 Tư thế ngồi viết của các em rất quan trọng, ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không được tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25 cm -> 30 cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ cho vở không xê dịch khi viết, không lệch vai, hai chân để song song. Làm thế nào để có tư thế ngồi thoải mái là điều kiện giúp các em học tốt suốt buổi. 
 	Giáo viên cần kiểm tra và nhắc nhở thường xuyên về tư thế ngồi của học sinh trong các tiết học để hình thành cho các em có thói quen tốt .
 	Có tư thế ngồi tốt, ta cần chú ý đến cách cầm bút, để vở của học sinh. Khi viết ta cầm bút và điều khiển bằng ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở phía trên cách đầu bút khoảng 3 cm, đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía bên phải của bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. Ba điểm tựa này giữ bút và điều khiển ngòi bút dịch chuyển linh hoạt. Khi viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay, khuỷu tay và cánh tay luôn tạo cho đôi tay mềm mại khi cầm bút để viết, không viết bằng toàn thân. Vở phải để nghiêng về bên trái so với mép bàn từ 25cm đến 30cm để các em dễ viết .
4. Kết quả chuyển biến của đối tượng
 	Sau thời gian áp dụng phương pháp hình thức tổ chức trên ở lớp1/1, dù bước đầu gặp khó khăn nhưng với sự nỗ lực của thầy và trò, chữ viết của các em có tiến bộ hơn. Kết quả cho thấy có chuyển biến rõ rệt. Điển hình như em: Trường An, Nguyễn Trung Hậu, Nguyễn Gia Bảo, Bùi Vĩnh Phúc, Trần Vũ Linh, Phúc KhangĐầu năm tôi kiểm tra thì các em này viết chưa đúng mẫu, chữ viết còn xấu. Đến nay các em biết viết chữ đúng mẫu, đúng cỡ chữ, biết trình bày tập vở sạch sẽ hơn
 	 Kết quả thống kê 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_sinh_lop_1_co_chu_viet_dung_vi.doc