Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn Tin học 12 ở trường THPT

Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn Tin học 12 ở trường THPT

 Xuất phát từ lý luận thực tiễn và thực tế công tác 9 năm giảng dạy bộ môn Tin Học ở trường THPT Yên Định 2 tôi luôn đặt ra câu hỏi tại sao một môn học có tính tư duy cao, mới mẽ, hấp dẫn vậy mà không thu hút được học sinh tiếp thu bài và vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Ngoài ra kiến thức cơ bản của Tin học 12 lại là một trong những kiến thức cơ bản khi các em đặt chân vào môi trường đại học hoặc cao đẳng. Song nguyên nhân chính có lẽ là do quan niệm đây chỉ là môn học phụ không thi tốt nghiệp THPT, không thi Đại Học nên đa số các em không chú ý đến cái hay và mặt tích cực trong bộ môn này. Về phía giáo viên, mặt nào đó vẫn chưa có một phương pháp dạy học thật sự phù hợp, chưa tạo được hứng thú cho học sinh yêu thích bộ môn này. Đó là lý do tại sao tôi chọn đề tài “MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC MÔN TIN HỌC LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT ”.

doc 18 trang thuychi01 39532
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn Tin học 12 ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC MÔN TIN HỌC 12 Ở TRƯỜNG THPT
Người thực hiện: Trần Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Tin học
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
MỞ ĐẦU
2
Lí do chọn đề tài
2
Mục đích nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu
2
Phương pháp nhiên cứu
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
6
 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
14
Kết luận
14
Kiến nghị
15
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
 Xuất phát từ lý luận thực tiễn và thực tế công tác 9 năm giảng dạy bộ môn Tin Học ở trường THPT Yên Định 2 tôi luôn đặt ra câu hỏi tại sao một môn học có tính tư duy cao, mới mẽ, hấp dẫn vậy mà không thu hút được học sinh tiếp thu bài và vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Ngoài ra kiến thức cơ bản của Tin học 12 lại là một trong những kiến thức cơ bản khi các em đặt chân vào môi trường đại học hoặc cao đẳng. Song nguyên nhân chính có lẽ là do quan niệm đây chỉ là môn học phụ không thi tốt nghiệp THPT, không thi Đại Học nên đa số các em không chú ý đến cái hay và mặt tích cực trong bộ môn này. Về phía giáo viên, mặt nào đó vẫn chưa có một phương pháp dạy học thật sự phù hợp, chưa tạo được hứng thú cho học sinh yêu thích bộ môn này. Đó là lý do tại sao tôi chọn đề tài “MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC MÔN TIN HỌC LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT ”.
2. Mục đích nghiên cứu
 Đánh giá được thực trạng của công tác giáo dục môn tin học ở trường THPT và phương pháp giảng dạy của giáo viên, thông qua đó đề ra biện pháp giáo dục phù hợp có hiệu quả giúp cho các em hứng thú và hăng say hơn, khi đó học sinh sẽ chủ động tiếp thu kiến thức môn Tin học.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh chủ yếu là các lớp cơ bản khối 12 trường THPT Yên Định 2;
- Chương trình Tin học 12;
- Hệ cơ sở dữ liệu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu là phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Trên cơ sở những kiến thức cơ bản bộ môn Tin Học THPT, phương pháp dạy học và những quan điểm đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục và Đào tạo về chuẩn kiến thức và phương pháp dạy học tích cực.
Nhìn nhận lại thực trạng của công tác giảng dạy bộ môn Tin Học và việc tiếp thu bài của học sinh của trường THPT Yên Định 2 – Thanh Hóa trong năm học 2016- 2017.
Đưa ra một số biện pháp về việc đổi mới công tác giảng dạy bộ môn Tin Học cho học sinh của trường trong giai đoạn hiện nay.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục toàn diện cho học sinh cả về đạo đức và trí tuệ để bắt kịp và hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện rõ trong nghị quyết số 40/2000/QH 10 ngày 9/2/2000 của Quốc Hội khoá X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu “Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, SGK phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất Nước phù hợp với thực tiễn và tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông của các nước trong khu vực và trên thế giới”. Luật giáo dục điều 24.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm với từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi về mặt con người khá toàn diện: Ngoài trình độ chuyên môn đòi hỏi con người Việt Nam còn phải sử dụng thành thạo máy vi tính, cập nhật công nghệ thông tin, nói thông thạo một số ngoại ngữ... Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu thờ ơ và thiếu nghiêm túc trong việc học tin học, ngoại ngữ và cập nhật công nghệ thông tin dẫn đến trong quá trình phát triển kém, trong quan hệ cộng đồng khó khăn, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí hội nhập phát triển kém, không còn tính tự chủ dễ bị tụt hậu so với xã hội.
Với tiến bộ nhảy vọt trong vài chục năm trở lại đây, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Hiện nay trên phạm vi toàn cầu, các công cụ của công nghệ thông tin đang dần thay thế những công cụ truyền thống, góp phần thúc đẩy sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực khoa học, kinh tế, giáo dục, xã hội. Cũng giống như cuộc cách mạng công nghiệp, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cách sống và cả cách suy nghĩ của chúng ta. 
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Kết quả khảo sát chất lượng
Từ thực tế giảng dạy tại trường THPT thuộc huyện Yên Định, trường Yên Định 2 . Tôi có ghi lại bảng khảo sát chất lượng giữa kì I năm học 2016- 2017 như sau:
Lớp
Sĩ số
Điểm >=8
Trên TB
Dưới TB
Điểm < 2.5
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
12C4
45
6
13.3
30
66.7
9
20
0
0
11C8
37
2
5.4
25
67.6
10
27
0
0
Vì trong thời gian nghiên cứu tôi chỉ tham gia giảng dạy môn tin ở 2 lớp khối 12 nên nội dung nghiên cứu chủ yếu dựa trên tình hình học tập, đặc điểm tâm lí học sinh mà tôi trực tiếp giảng dạy.
2.2. Một số đặc điểm thể hiện học sinh không hứng thú với môn học.
2.2.1. Không nắm được các khái niệm cơ bản
Như chúng ta đã biết kiến thức Tin Học 12 chủ yếu là những khái niệm và kiến thức cơ bản liên quan đến cơ sở dữ liệu và hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên học sinh thường chỉ học vẹt để kiểm tra bài cũ, làm bài kiểm tra mà không hiểu rõ và nhớ lâu về những kiến thức này. 
2.2.2. Tiếp thu kiến thức chậm, khả năng tư duy kém
Nếu như ở chương 1 học sinh cần được các khái niệm cơ bản, thì ở chương 2 mục tiêu quan trọng của chương là giúp học sinh biết làm việc với 1 hệ quản trị cơ sở dữ liệu cụ thể. Sách giáo khoa đã chọn Microsoft Access là 1 hệ quản trị cơ sở dữ liệu khá thông dụng hiện nay. Do kiến thức của các chương có liên quan khá chặt chẽ với nhau nên cần tìm ra điểm logic các vấn đề này để quá trình học tập xuyên suốt. Tuy nhiên học sinh lại rất khó vận dụng kiến thức đã học để giải quyết vấn đề đặt ra. Nhiều học sinh sau khi giáo viên đã hướng dẫn trong quá trình học, nhưng các em khi gọi lên bảng vẫn rất lung túng trong việc tạo mới 1 cơ sở dữ liệu thậm chí còn không nắm được trình tự các bước.
Chương trình tin học 12 không đòi hỏi tính tư duy cao như chương trình tin học 11 nhưng trong một số bài tập học sinh vẫn cần suy nghĩ kĩ trước khi thực hiện. Như trong bài 8: Truy vấn dữ liệu, tạo đối tượng mẫu hỏi. Nhiều học sinh không biết viết biểu thức logic và chuyển từ biểu thức logic qua bộ lọc cho 1 bảng hay nhiều bảng. 
2.2.3. Thao tác với máy tính còn chậm và không phát huy được những kiến thức đã học.
Do điều kiện cơ sở vật chất vẫn chưa hoàn thiện nhiều trường học được trang bị chỉ có một số phòng máy với một số lượng rất hạn chế mà học sinh của một lớp thì rất đông, hôm nào thực hành phải ghép 2 đến 3 em sử dụng một máy nên việc thao tác trên máy là cực kỳ hạn chế. Một điều kiện khách quan khác đó là đa số học sinh là con nông dân sống ở khu vực nông thôn nên việc có máy tính tại nhà là rất ít. Mà việc được tiếp xúc với máy tính tại những nơi học tập lại như thế nên dẫn đến về cơ bản đa số học sinh vẫn chưa thành thạo khi sử dụng máy tính. Việc này sẽ phân cấp rõ rệt hai đối tượng học sinh, một số em gia đình có điều kiện hơn đã trang bị được máy tính tại nhà sẽ sử dụng thành thạo và hiệu quả hơn. Số còn lại là những học sinh thuộc diện gia đình khó khăn không có điều kiện tiếp xúc nhiều với máy tính, khi thực hành sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng dẫn đến dễ chán nản, tự ti. Bộ phận này kỹ năng cơ bản về máy tính yếu như thế thì việc áp dụng cho các em làm bài tập thực hành trên máy là rất chậm và không ít khó khăn.
Trong chương trình tin học THPT, sách giáo khoa đã giới thiệu cho học sinh 2 phần mềm Microsoft Word và Microsoft Access nằm trong bộ office của Microsoft. Có thể nói 2 phần mềm này ít nhiều có những điểm tương đồng với nhau, ví dụ như giao diện trong đó thanh bảng chọn, thanh công cụNhưng mặc dù đã được học về Microsoft Word, học sinh khi học Access lại vẫn không hình dung được các thao tác cơ bản đối với phần mềm này. 
2.2.4. Thái độ học tập thờ ơ, phương pháp học tập chưa tốt.
Nhiều em chưa tự giác học tập, chưa có động cơ học tập nên không chú ý học tập. Nhiều em học các môn tự nhiên khá nhưng ngại học Tin Học. Tâm lí chung của các em là sợ môn Tin vì nghĩ là nó rất khó. Hầu hết các em trong giờ học thường thiếu sự tập chung không chú ý, có thái độ rất thụ động và thờ ơ trong việc học. Trên lớp không chú ý về nhà lại không học bài cũ nên kiến thức nắm rất hời hợt càng khó vận dụng lí thuyết để thực hành.
2.3. Nguyên nhân
 Một trong những nguyên nhân khiến các em có thái độ e dè ngại học môn Tin Học : Đó là một trong các bộ môn khoa học đòi hỏi người học phải có tính tư duy cao, tính kiên trì nhẫn nại điều này không phải ai cũng có sẵn càng không thể học vẹt, học tủ. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan sau:
2.3.1. Học sinh không xác định được mục tiêu của môn học, không biết học để làm gì.
Áp lực từ các kì thi rất lớn nên hầu hết khi hỏi mục đích của việc học là gì thì đa số các em đều trả lời rằng “Học để thi”.Vậy những môn không thi thì sao?
Trong khi đó chương trình tin học 12 giúp cho các em hiểu được cách tổ chức, quản lí dữ liệu trên máy tính và thông qua hệ quản trị cơ sở dữ liệu Microsoft Access giúp học sinh bước đầu làm quen với các thao tác cơ bản có thể xây dựng 1 chương trình quản lí trên máy tính. Đây là kiến thức rất cần thiết đối với học sinh vì ngày nay các chương trình quản lí được sử dụng rất nhiều để giải quyết các bài toán quản lí trong mọi lĩnh vực của xã hội.
 2.3.2. Hoàn cảnh gia đình, điều kiện học tập khó khăn
 Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, học sinh phải làm việc nhà nhiều hoặc làm thêm để kiếm sống nên không chú ý đến học tập.
 Không chỉ đối với riêng môn Tin học mà còn nhiều môn khác. Sự quan tâm của phụ huynh cũng ảnh hưởng đến việc học của học sinh. Nếu như trên lớp đã không chịu tập chung nghe giảng về nhà không xem lại bài thì các em học sẽ càng kém hơn, có suy nghĩ chán nản hơn và thiếu tích cực. Nhiều học sinh thuộc diện khá giả nhưng do bố mẹ bận công việc nên không biết các em học hành như thế nào? Lại có những học sinh vì hoàn cảnh gia đình khó khăn bố mẹ đều phải đi làm ăn xa không ở bên cạnh để các em ở nhà tự xoay sở, vì tuổi còn nhỏ nên các em không đủ ý thức để vươn lên bằng cách tự giác học tập mà chỉ đến lớp cho có còn hầu như không có ý thức tiếp thu bài giảng.
2.3.3. Yếu tố tâm lý, xã hội.
 Học sinh khối 12 là học sinh cuối cấp, chuẩn bị đối mặt với các kì thi THPT QG nên hầu hết học sinh chỉ coi trọng những môn trong các kì thi mà tỏ ra xem nhẹ các môn khác. Nếu như môn Toán hay 1 số môn ngoài học trên lớp chính khoá các em còn được học thêm và về nhà các em dành hết thời gian cho chúng vậy thì còn thời gian nào các em dành cho Tin học.
 Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet, các dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn lôi cuốn các em hơn là nhiệm vụ học tập nhất là các môn học có tính tư duy cao như môn Tin học. Thực tế dạy học môn Tin ở trường hiện nay cho thấy nhiều học sinh chán học, lười học và có khuynh hướng ham chơi hơn ham học.
 2.3.4. Nhiều giáo viên dạy Tin chưa có phương pháp phù hợp.
 Chưa bao giờ chúng ta thấy báo chí và các phương tiện, diễn đàn trên mạng nói nhiều về phương pháp dạy học như hiện nay. Nếu như trước đây giáo viên thường sử dụng phương pháp dạy học truyền thống thì bây giờ phải sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong một tiết dạy. Sự phát triển của xã hội làm cho học sinh có nhiều điều kiện tiếp xúc với kiến thức của nhân loại sinh động và hấp dẫn đặc biệt là mạng Internet. “Nếu như giáo viên chỉ biết bôi đen kiến thức và dán vào học sinh thì sẽ không hiệu quả” chính vì vậy mà hiệu quả của quá trình dạy học tương đối phụ thuộc vào phong cách, phương pháp truyền thụ của giáo viên.
3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
 Học sinh không có hứng thú với môn học là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa có phương pháp dạy học phù hợp chưa quan tâm tới suy nghĩ, thái độ của học sinh. Một phần là học sinh lười học, không chịu học, không biết học để làm gì, áp dụng vào thực tế được gì?
Nếu giáo viên không sớm nhận ra hiện tượng này thì nhận thức của học sinh ngày càng thụ động trong việc tiếp thu kiến thức dẫn đến các em không đáp ứng được chuẩn kiến thức của môn học và những kĩ năng cơ bản. Không cần kể nguyên nhân do đâu, cần phải làm sao để học sinh có thể hứng thú với môn học. Chủ động tiếp thu kiến thức, tăng khả năng tự học đáp ứng được yêu cầu của xã hội đối với con người trong xã hội ngày nay.
Để tạo cho học sinh một niềm hứng khởi với môn học tôi đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng trên.
3.1. Tạo động cơ học tập đúng đắn, tâm lí thoải mái, tự tin cho học sinh
Bước vào năm học lớp 12 đứng trước các kì thi, lựa chọn con đường nghề nghiệp cho tương lai nên các em rất cần những thông tin liên quan đến lĩnh vực này. Nắm bắt được tâm lí này của học sinh, giáo viên cần cung cấp những thông tin để giúp các em ổn định tâm lí học. Hành trang để các em bước vào môi trường học sau THPT không chỉ có kiến thức tự nhiên (toán, lý, hoá, sinh) và xã hội (văn, sử, địa) mà bên cạnh đó kiến thức tổng hợp trong đó có tin học khá quan trọng trong việc tạo ra kĩ năng mềm cho học sinh, điều mà sinh viên hiện nay đang rất yếu trong lĩnh vực này. Giáo viên có thể cung cấp thêm một số nghành nghề liên quan đến môn học và xu hướng những nghành nghề này trong thời gian tới. Bản thân tôi là một người thường xuyên luôn phải cập nhật thông tin báo chí để có thể giải đáp các thắc mắc của học sinh, khi học sinh cần những thông tin thực tế và thời sự.
 Ngoài ra một trong những yếu tố khiến các em không có hứng thú khi tiếp xúc với bộ môn này là do giáo viên tạo áp lực cho học sinh. Một số giáo viên luôn đòi hỏi cao đối với học sinh nhưng không tìm hiểu xem liệu học sinh có thể đáp ứng được những yêu cầu đó không. Chính vì vậy mà ngay từ khi tiếp xúc với các em tôi đã tạo cho các em tâm lí thoải mái, sự thân thiện, chân thành tin cậy trong các hoạt động dạy và học.
Làm sao để cho học sinh thấy được đối với mỗi học sinh khi ngồi trên ghế nhà trường chúng ta phải thật sự nỗ lực để tiếp thu những kiến thức phổ thông sau này có thể học cao hơn hoặc áp dụng vào thực tế, chứ không phải học chỉ để vượt qua các kì thi mà những kiến thức này lại xem nhẹ.
Trong quá trình dạy giáo viên phải có thái độ nhẹ nhàng khi các học sinh mắc khuyết điểm, cư xử khéo léo với các em, xử lí tốt các tình huống sư phạm.
Việc đánh giá nhận xét phải công bằng, khách quan và công tâm, công khai kết quả trong các giờ kiểm tra và nhận xét bài làm của học sinh. Không nên đánh giá quá thấp sẽ làm cho học sinh chán nản, nên tạo cho học sinh một niềm tin khi học môn này.
Phải có kiến thức vững vàng để giải đáp thắc mắc một cách thuyết phục, khuyến khích các em mạnh dạn hỏi bài khi chưa hiểu.
Xây dựng cho các em thói quen học tập tích cực, động viên kịp thời những học sinh tiến bộ, cung cấp cho các em phương pháp học tập đúng đắn, khuyến khích các em không ngừng cố gắng, tạo điều kiện để mọi học sinh trong lớp đều có cơ hội phát biểu trong giờ học.
 3.2. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học, thực hành. Khuyến khích học sinh tìm tòi, khám phá.
Nếu như chương trình tin học 11 với mục tiêu là dạy thuật toán cho học sinh thông qua ngôn ngữ lập trình pascal, và phương tiện dạy học như máy chiếu, phòng máy có vai trò hỗ trợ, khẳng định những gì đã học. Thì những phương tiện đó lại có vai trò quyết định trong quá trình dạy và học tin học 12 đặc biệt trong chương 2. Nếu như giáo viên không tích cực sử dụng phương tiện này thì coi như quá trình dạy học khá thất bại vì học sinh sẽ ít hứng thú với những biểu mẫu, tranh ảnh, hình vẽ bằng chính việc được minh hoạ trên phần mềm Microsoft Access.
Mục đích kĩ năng của chương trình tin học 12 là làm việc với 1 hệ quản trị cơ sở dữ liệu cụ thể. Tuy nhiên sự phát triển của công nghệ thông tin có thể nói là như “ vũ bão”. Cũng là 1 hệ quản trị cơ sở dữ liệu nhưng nó có nhiều phiên bản khác nhau và bao giờ phiên bản sau cũng hoàn thiện, hiệu quả hơn phiên bản cũ. Chính vì vậy mặc dù trong sách giáo khoa còn đang sử dụng phiên bản Access 2002 thì thực tế hiện tại phiên bản mới đã lên đến 2016 kéo theo những thay đổi đáng kể. Chính vì vậy giáo viên cập nhật những thông tin này đưa vào bài giảng thì học sinh chắc chắn sẽ khó bỏ qua những thông tin này vì thậm chí có những học sinh rất nhạy bén với những thông tin mới.
Để sử dụng phương tiện dạy học đạt được hiệu quả tối đa giáo viên có thể sử dụng theo 2 hướng tuỳ theo khả năng chung của lớp.
Hướng thứ nhất: Sử dụng máy tính, máy chiếu song song với tiến trình bài giảng của giáo viên. Điều đó có nghĩa là giáo viên sẽ kết hợp xen kẽ kết hợp trong mỗi bước trình bày của mình. Như đối với bài 4: Cấu trúc bảng ở mục 2. Tạo và sữa cấu trúc bảng. Thay vì nêu các bước trên bài giảng điện tử rồi cuối cùng mới minh hoạ trên phần mềm theo cách thông thường thì giáo viên có thể dạy kiến thức mới ngay trên phần mềm bằng việc giới thiệu từng bước kết hợp minh hoạ. Học sinh sẽ hiểu nhanh hơn và cảm thấy hứng thú khi được khẳng định những gì mình đã học một cách nhanh nhất.
Hướng thứ 2: Giáo viên sẽ phân tích kĩ khả năng của học sinh trong các bước tiến trình của bài học. Sau đó giáo viên sẽ chủ động để học sinh tự nghiên cứu sách giáo khoa và lên minh hoạ thực hiện trong phần mềm. Như đối với bài 6: Biễu mẫu. Sau khi biết khái niệm và chức năng của biễu mẫu học sinh có thể dễ dàng tạo trên phần mềm vì khá đơn giản trong các bước. Giáo viên nên khuyến khích động viên học sinh dù học sinh làm tốt hay chưa tốt. Vì không được đồng tình trong hành động của mình học sinh dễ chán nản, tự ti điều đó chỉ làm học sinh bị động.
Giáo viên phải làm thế nào để học sinh được thể hiện mình trong tiết dạy. Trong 1 lớp có nhiều đối tượng học sinh với trình độ khác nhau, vì thế chúng ta cần có 1 sự phân công hợp lí trong hoạt động học tập. Hay nói cách khác là người thầy phải hiểu được trò của mình để giúp các em có niềm hứng thú trong học tập cho dù các em là học sinh giỏi hay trung bình, yếu, kém. Chúng ta đừng quan niệm rằng học sinh chỉ là người học mà phải xem các em là 1 “đối tác” trong các hoạt động giáo dục. Cũng như trong kinh doanh, trong giáo dục cũng vậy người thầy phải làm thế nào để cho “đối tác” thấy được lợi ích của mình thì sẽ thành công.
3.3. Cập nhật những kiến thức từ thực tế liên quan đến môn học 
Sự phát triển của công nghệ thông tin ở hầu hết các lĩnh vực từ cấu trúc lưu trữ dữ liệu, các phần mềm, kĩ thuật Qua kiến thức ở chương 1 học sinh sẽ hình dung ra dữ liệu của CSDL được lưu trữ trên máy tính của người dùng nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác của một hoặc nhiều người người dùng. Nhưng hiện nay dữ liệu đó có thể không nằm ở máy tính của người dùng mà vẫn đáp ứng nhu cầu khai thác của người dùng, vậy vấn đề này được đặt ra thì câu trả lời này là gì?
Câu trả lời sẽ nằm ở phần liên quan đến “ Điện tử đám mây”
Khi đó giáo viên sẽ đặt ra một vấn đề cho học sinh như sau: Giả sử bạn đang là giám đốc điều hành 1 công ty lớn, trong đó công ty này tất nhiên phải làm việc với rất nhiều CSDL và phần mềm ứng dụng liên quan. Trong số rất nhiều công việc mà bạn phải đảm đương có việc bạn phải đảm bảo rằng toàn bộ nhân viên của bạn được trang bị đầy đủ cả phần cứng lẫn phần mềm để thực hiện công việc của họ. Bạn không chỉ mua cho họ máy tính mà bạn còn phải mua bản quyền phần mềm để thực hiện công việc. Chưa hết mỗi khi thuê một người mới làm việc bạn lại phải mua phần mềm (nếu bản quyền phần mềm đang dùng không cho phép thêm người dùng nữa). Công việc quá căng thẳng vậy giải quyết bằng cách nào???
Đừng lo đã

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_giai_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_trong_gio_hoc_mon.doc