Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non NoBel năm học 2018 - 2019

Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non NoBel năm học 2018 - 2019

 Như chúng ta đã biết trẻ em Mầm non là tương lai của đất nước“ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội. Đảng và nhà nước cũng đã khẳng định bậc học mầm non là bậc học và là nền tảng đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ 0 – 6 tuổi giúp trẻ phát triển toàn diện về 5 lĩnh vực: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm kỹ năng xã hội và thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách và chuẩn bị những tâm thế tốt nhất cho trẻ trước khi bước vào trường học phổ thông; hình thành và phát triển cho trẻ những chức năng tâm lý, năng lực phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi, khơi dạy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời.

Nhưng xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống của con người,nhiều vấn đề phức tạp liện tục xảy ra.Bên cạnh những tác động tích cực,còn có những tác động tiêu cực,gây nguy hại cho con người đặc biệt là trẻ em. Điều này làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và sự phát triển toàn diện của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống. Đối với lứa tuổi mầm non, việc dần dần tiếp nhận các tri thức là hết sức quan trọng.

 

doc 19 trang thuychi01 8002
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non NoBel năm học 2018 - 2019", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
NỘI DUNG
TRANG
I
 MỞ ĐẦU. 
2
1
Tên đề tài
2
2
 Lí do chọn đề tài.
2
3
 Mục đích nghiên cứu.
3
4
 Đối tượng nghiên cứu.
3
5
 Phương pháp nghiên cứu.
3
II
 NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
4
1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
4
2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
5
3
Các giải pháp thực hiện đã sử dụng để giải quyết vấn đề 
6
4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,với bản thân,đồng nghiệp và nhà trường.
15
III
 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
17
1
 Kết luận.
17
2
Kiến nghị.
17
Tài liệu tham khảo
19
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.Tên đề tài: “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi.”
2.Lý do chọn đề tài:
 Như chúng ta đã biết trẻ em Mầm non là tương lai của đất nước“ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự chung tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội.   Đảng và nhà nước cũng đã khẳng định bậc học mầm non là bậc học và là nền tảng đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ 0 – 6 tuổi giúp trẻ phát triển toàn diện về 5 lĩnh vực: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm kỹ năng xã hội và thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách và chuẩn bị những tâm thế tốt nhất cho trẻ trước khi bước vào trường học phổ thông; hình thành và phát triển cho trẻ những chức năng tâm lý, năng lực phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi, khơi dạy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời.
Nhưng xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống của con người,nhiều vấn đề phức tạp liện tục xảy ra.Bên cạnh những tác động tích cực,còn có những tác động tiêu cực,gây nguy hại cho con người đặc biệt là trẻ em. Điều này làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và sự phát triển toàn diện của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống. Đối với lứa tuổi mầm non, việc dần dần tiếp nhận các tri thức là hết sức quan trọng. 
Song song với đó, cần hình thành và rèn luyện những kĩ năng sống cần thiết để các bé tự tin và phát triển tốt.Do đó,việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung,và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng.Giáo dục kỹ năng sống được đo bằng việc vận dụng những kỹ năng đó vào cuộc sống,hòa nhập với thế giới xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi thì trẻ cần có những sự tác động khác nhau đến kỹ năng sống của trẻ. Chăm sóc và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển hài hòa toàn diện về nhân cách là nền tảng giúp cho quá trình học tập lâu dài của trẻ sau này.
 Là giáo viên trực tiếp đứng lớp 5 tuổi tôi nhận thức đặc biệt rằng ở lứa tuổi tôi đang giảng dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi .Nếu trẻ được học những kỹ năng sống ngay từ bậc mầm non thì khi lớn lên sẽ tự tin hơn, biết cách tự lập, biết tự vượt qua khó khăn và biết sống sao cho có ích với xã hội.Những kiến thứcvề kỹ năng sống phải được cung cấp thành những hành động thực tiễn với bản thân,với người khác,với xã hội tạo điều kiện để cọ sát, , trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành và áp dụng. Trẻ phải được thảo luận theo nhóm, theo cặp,đóng vai, tranh luận và phân tích tình huống, trẻ phải biết thích nghi, thể hiện cảm xúc, có khả năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề một cách tự lập. Đó chính là tiền đề 
gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy việc hình thành và phát triển lỹ năng sống cho trẻ mầm non là rất cần thiết. 
Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Tôi đã suy nghĩ và trăn trở rất nhiều đó là: Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết. .Với tinh thần trách nhiệm cao, lòng say mê nhiệt tình ham học hỏi. Nên tôi tự hỏi mình rằng: Phải làm gì? Làm như thế nào? Để đưa ra những biện pháp tối ưu nhất khi thực hiện chuyên đề.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non NoBel năm học 2018-2019
3. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm tìm ra một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm non NoBel
4. Đối tượng nghiên cứu:
 Nghiên cứu một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non NoBel tôi đang công tác năm học 2018-2019
5. Phương pháp nghiên cứu: 
 	Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
 - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận (phân tích, tổng hợp tài liệu Internet, học chuyên đề, tập san, sách báo có liên quan đến đề tài)
 - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn .
 + Phương pháp trải nghiệm
 + Phương pháp quan sát
 + Phương pháp nêu gương
PHẦN II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận.
 Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời
1.1. Khái niệm kỹ năng sống
-Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đưa ra, dựa trên cơ sở là 4 mục tiêu cơ bản của việc học: Học để biết – Học để làm – Học để là chính mình – Học để cùng chung sống. Dựa vào đó, UNESCO định nghĩa “KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”.
-Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra, dựa trên lý thuyết học tập xã hội của Bandura (1977), tức là nhấn mạnh sự học tập qua quá trình trải nghiệm của con người, qua sự tích lũy kinh nghiệm sống, cấu trúc kinh nghiệm và chủ động nắm lấy kinh nghiệm. Theo đó, WHO định nghĩa “KNS là những năng lực giao tiếp đáp ứng và những hành vi tích cực của cá nhân có thể giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
-Theo Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF),“KNS là những kỹ năng tâm lý xã hội có liên quan đến tri thức, những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống”. 
 1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Ở lứa tuổi mẫu giáo, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó góp phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học 
tập, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này. Trong xã hội hiện nay, kiến thức của con người ngày càng phát triển và mở rộng, từng cá nhân, nếu không được bồi dưỡng, cập nhật thông tin thường xuyên sẽ trở thành lạc hậu. Bên cạnh đó, yêu cầu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ngày càng cao. 
1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 
Để hình thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày trước tiên giáo viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo viên phải có kiến thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, để trẻ được cuốn hút vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các bạn trong nhóm lớp. Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ:
-Hiểu biết và chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng
-Trẻ biết nhận thức về bản thân, tự tin và tự trọng
-Trẻ biết cách thiết lập mối quan hệ, hợp tác với bạn bè, cảm nhận và thể hiện tình cảm
-Trẻ biết cách giao tiếp,nghe hiểu và sử dụng lời nói khi giao tiếp,biết cách chào hỏi lễ phép với người lớn tuổi và bạn bè
-Biết cách tự bảo vệ bản thân trước những trường hợp nguy hiểm
- Biết được một số hành vi đúng, sai của con người đối với môi trường; Có hành vi bảo vệ môi trường trong sinh hoạt hàng ngày.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
 - Trong năm học 2018 -2019. Được sự quan tâm của BGH nhà trường phân công tôi trực tiếp chăm sóc, giảng dạy trẻ ở độ tuổi 5-6 tuổi theo hình thức giáo dục mầm non mới.
 -Tổng số trẻ trong lớp là 32 trẻ, trong đó có 20 cháu nam và 12 cháu nữ. Phòng học rộng dãi thoáng mát, các cháu hầu hết đều ngoan trẻ đi học chuyên cần.
 2.1.Thuận lợi:
 - Nhìn chung trẻ khỏe mạnh, định biên cháu trên lớp đảm bảo, thuận lợi cho việc chăm sóc giáo dục trẻ.
 - Cơ sở vật chất khang trang, trang thiết bị hiện đại, đồng bộ cho lớp trong việc chăm sóc giáo dục trẻ
-Phần lớn phụ huynh là cán bộ công chức, viên chức nhà nước nên có điều kiện chăm sóc giáo dục trẻ.
-Giáo viên có trình độ trên chuẩn cao, đảm bảo được định biên theo quy định.
 2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những mặt thuận lợi trên còn không ít khó khăn mà tôi vẫn còn gặp:
+ Về phía giáo viên.
- Một số giáo viên chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ
- Chưa nắm vững kiến thức, phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
- Giáo viên thường có tâm lý né tránh,ngại giao tiếp với phụ huynh nên không khắt khe trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ
- Công tác phối hợp với phụ huynh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ chưa chặt chẽ, thường xuyên.
+ Về phía phụ huynh.
- Phần lớn trẻ được cưng chiều, thường được bố mẹ làm thay, làm hộ nên kỹ năng tự phục vụ còn hạn chế
- Tình trạng phụ huynh lạm dụng cho trẻ xem tivi, điện thoại...còn khá phổ biến nên hạn chế việc giao tiếp, tiếp xúc với bên ngoài.
+Về phía trẻ:
Qua khảo sát thực trạng tình hình thực tế trẻ ở lớp trong đầu năm học 2018-2019. Tôi tiến hành điều tra trên lớp 32 trẻ trước khi thực hiện đề tài với kết quả như sau: 
STT
Nội Dung
Kết quả
Đạt
Chưa đạt
Số Trẻ
Tỷ lệ(%)
Số trẻ
Tỷ lệ(%)
1
Hiểu biết và chăm sóc dinh dưỡng và sức khỏe
10
31,3
22
68,7
2
Nhận thức về bản thân
Tự tin và tự trọng
12
37,5
20
63,5
3
Thiết lập mối quan hệ,hợp tác với bạn bè,cảm nhận và thể hiện tình cảm
14
43,7
18
56,3
4
Giao tiếp, chào hỏi lễ phép ,nghe hiểu và sử dụng lời nói khi giao tiếp
13
40,6
19
59,4
5
Tự bảo vệ bản thân
13
40,6
19
59,4
6
Bảo vệ môi trường
12
34,8
20
56,2
 Qua kết quả khảo sát cho thấy kỹ năng sống của trẻ còn rất thấp,bản thân tôii đã suy nghĩ,trăn trở và tìm ra 1 số biện pháp phù hợp nhằm nâng cao kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tại trường mầm non NoBel 
 3. Những biện pháp thực hiện.
 3.1. Biện pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao hiểu bết về nội dung, phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
 Để có thể thực hiện tốt “ Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi” trước hết giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà giáo viên còn cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. 
 - Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí mầm non.
 +Trên thực tế hiện nay ở trường mầm non Nobel chúng tôi, đội ngũ giáo viên đều là các cô giáo trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Qua kiểm tra, đánh giá đầu năm có rất nhiều trẻ còn chưa biết chào cô, chào khách, chưa có kỹ năng giao tiếp, chưa có kỹ năng tự phục vụHoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường tôi nói chung và ở lớp tôi nói riêng chưa 
thực hiện tốt, chưa lồng ghép tích hợp vào các hoạt động, giáo viên hầu như không mấy để ý và đi sâu vào hoạt động này. 
- Tôi nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng vì nó quyết định đến nhân cách của trẻ sau này. Chính vì vậy tôi đã đề xuất với ban giám hiệu cung cấp tài liệu và trong các buổi họp sinh hoạt chuyên môn của khối tôi chia sẻ với đồng nghiệp về các biện pháp “ Dạy kỹ năng sống cho trẻ”. và qua việc tự bồi dưỡng bản thân, học hỏi qua truyền thông, báo đài, tài liệu cũng như xem các phương tiện thông tin hiện đại, tôi đã nắm vững được các phương pháp để dạy trẻ một số kỹ năng cơ bản nhất. 
- Trong những buổi sinh hoạt tôi thường đưa những giá trị của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt.
- Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới.
 - Có kinh nghiệm sống và biết soi xét
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình lên trẻ.
- Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá
- Biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí hấp dẫn
- Biết chủ động phương pháp giáo dục
- Biết tạo bầu không khí trò chuyện sôi nổi.
3.2.Biện pháp 2: Cô giáo là tấm gương sáng để trẻ noi theo,thường xuyên động viên khích lệ trẻ 
-Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tấm gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, giáo viên cần là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đềĐây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cô giáo cũng luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn
Ví dụ: Khi thấy trên sân trường có lá cây, cô giáo đi qua và bảo trẻ: Con hãy nhặt bỏ vào thùng rác đi. Khi ấy trẻ sẽ nhặt vì bị sai khiến.Cũng tình huống trên: Cô nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết tại sao cô bỏ lá cây vào thùng rác không? Giải thích cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu rằng: nhặt rác làm sạch sân trường.
Ví dụ: Khi chúng ta dạy trẻ nói lời cám ơn khi nhận được sự giúp đỡ của người khác hoặc khi người khác làm một điều gì đó cho mình.Nhưng trong mối quan hệ giữa các cô giáo và giữa cô với trẻ, người lớn không nói cám ơn thì trẻ sẽ không hình thành ý thức của việc nên cám ơn người khác
Hình ảnh: Trẻ biết cảm ơn khi được nhận quà từ bạn
- Cô giáo nên thường xuyên nêu gương trẻ khi trẻ có những việc làm tốt, nhằm khích lệ động viên trẻ
Ví dụ:“ Các con đã tự mình làm được nhiều việc mà không phụ thuộc vào người khác, các con là những em bé rất giỏi các con rất xứng đáng nhận được một tràng pháo tay”. Điều này sẽ giúp cho trẻ tự tin hơn, dám tự tìm tòi và suy nghĩ, giám đưa ra ý kiến của mình.
3.3. Biện pháp 3. Làm tốt công tác tuyên truyền, phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
 -Hiểu rõ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ trong việc giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm khi tổ chức họp phụ huynh tôi đã đưa sáng kiến và ý tưởng về ý nghĩa giáo dục kỹ năng sống của mình áp dụng vào trẻ. Và thống nhất với các phụ huynh về những biện pháp giáo dục ở nhà và khi họp phụ huynh giữa năm tôi đã nêu tiêu chí nào trẻ đã thực hiện được và làm được hay chưa làm được, còn những tiêu chí nào chưa làm được tôi nêu ra cuộc họp để cùng bàn luận và cùng uốn nắn trẻ ngay và kịp thời. Đặc biệt những phụ huynh ít quan tâm đến con cái, tôi tìm cách để gặp và trao đổi về thành tích học tập của cháu ở lớp và đồng thời hỏi thăm về nề nếp sinh hoạt, sở thích của cháu ở nhà. Với việc làm kiên trì đó tôi đã tác động việc học của cháu ở lớp cũng như việc rèn nề nếp ở nhà, vì tôi thấy rằng một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn trong nhóm lớp lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết mới trong môi trường gia đình của trẻ. Chính vì vậy cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo các mối liên kết bạn bè tại gia đình, cha mẹ không nên bực bội khi trẻ đi chơi với bạn khác và tham gia các buổi . Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về sự tiến bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục rèn luyện cho trẻ ở nhà. Đối với những trẻ mà giáo viên cần lưu ý  hơn đó là trẻ có thể lực yếu, suy dinh dưỡng, trẻ thụ động , trẻ hay nghịch thì tôi luôn tranh thủ đến tận nhà để trực tiếp gặp gia đình của cháu trao đổi về thực trạng của cháu và cùng với gia đình trẻ có biện pháp giúp đỡ cho trẻ tốt hơn.Những cử chỉ và việc làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tôi thường nêu ra và tuyên dương trẻ đó trước lớp trong giờ nêu gương để trẻ khác cùng học tập.
Ví dụ: Một số kỹ năng phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ kỹ năng gấp chăn gối, kỹ năng lồng gối, kỹ năng mặc quần áo. Vậy muốn trẻ làm tốt được những kỹ năng này tôi phối hợp với phụ huynh hướng dẫn và quan sát trẻ khi con ở nhà. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng lực của trẻ bên cạnh đó cha mẹ cần dạy trẻ từ từ để trẻ hiểu và cha mẹ chính là tấm gương sáng để trẻ noi theo
 3.4. Biện pháp 4: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc, mọi nơi
- Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo, vì vậy việc rèn kỹ năng sống cho trẻ được lồng ghép vào trong các hoạt động học cũng như các hoạt động vui chơi trong ngày của trẻ
+ 4.1 Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác
Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với cô cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “ cô chào bạn Như Ý Thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “ Con chào cô ạ’ và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ đi để vào lớp với cô nào. Hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ “ các con chào bác, bà đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có thói quen chào cô, chào bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra về. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác.
Hình ảnh: Trẻ đã có thói quen chào hỏi khi đến lớp
 4.2 Trong giờ thể dục sáng: Dưới sân trường tôi kết hợp kỹ năng xếp hàng, đi theo hàng lối, không chen lấn xô đẩy bạn
Hình ảnh: Kỹ năng xếp hàng ngay ngắn không chen lấn xô đẩy nhau
4.3. Trong giờ hoạt động học
- Thông qua hoạt động làm quen văn học: Tôi kể cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để trẻ trả lời, Cho trẻ nhập vào vai các nhân vật trong câu truyện. giáo dục trẻ làm việc theo nhóm, không tham lam ích kỷ, biết lắng nghe ý kiến của người khác, tôn trọng hợp tác với bạn bè, với những người xung quanh.
Ví dụ: Với tiết kể chuyện “ chú dê đen”Thông qua các giờ tập đóng kịch,khi nhập vào vai nhân vật trẻ biết thể hiện rõ sắc thái của nhân vật,ngôn ngữ hình thể được thể hiện rõ rệt như khi kể chuyện “chú dê đen” nhân vật dê trắng thì giọng điệu run sợ, nhút nhát;nhân vật dê đen thì mạnh mẽ, dũng cảm; nhân vật sói thì lạnh lùng,gian ác
Hình ảnh: Trong giờ đóng kịch chú dê đen
 - Thông qua hoạt động nghệ thuật: Như nhảy múa, ca hát, vẽ tranhTôi sẽ kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng tưởng tượng và sáng tạo của mình.
 Ví dụ: Trong tiết vận động múa minh họa cho bài hát “Đố bạn ”
+ Trẻ nói: Cô ơi con không biết múa.
+ Cô: Cô thấy con múa rất là đẹp và dễ thương đấy,con hãy cufg múa cho các bạn xem nhé. Từ những lời động viên khích lệ đó trẻ sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động để từ đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác
 - Thông qua hoạt động khám phá xã hội: Qua bài tìm hiểu một số đồ dùng ăn uống trong gia đình. Trẻ biết đặc điểm ,tác dụng riêng của từng loại đồ dùng ă uống trong gia đình từ những câu hỏi cô đưa ra như: Các con có biết thì dùng để làm gì? Bát dùng để làm gì các con nhỉ?... Trẻ trả lời “thưa cô bát dùng để ăn cơm ạ!.... cứ như vậy trong một tiết học với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ nào cũng được tham gia, với trẻ ít nói cô gọi nhiều và thường xuyên hơn.
 - Thông qua hoạt động thể dục : Tôi cùng các giáo viên khác tổ chức cho trẻ các vận động như : đi trên ghế thể dục đầu đội túi cát, bò thấp chui qua cổng, , tung bóng bằng 2 tay và bắt bóng, bò chui qua hầm, ném trúng đích thẳng đứng, Bò zíc zắc qua 7 điểm, đi bước chéo sang ngang, qua đó rèn cho trẻ các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia vận động. biết bảo vệ sức khỏe. 
 Hình ảnh: Các

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_ren_ky_nang_song_cho_tre_5_6_tuoi_tai_truon.doc