Một số biện pháp rèn kĩ năng lập dàn ý của bài văn kể chuyện cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Tân Lập, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa

Một số biện pháp rèn kĩ năng lập dàn ý của bài văn kể chuyện cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Tân Lập, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa

Nếu những viên gạch tạo nên công trình xây dựng vững chắc, bộ xương là cái khung của một cơ thể sống thì một bài văn lại được hình thành nên từ các ý, các chi tiết. Mỗi ý, mỗi chi tiết đó là một cái xương sống của bài văn. Vì vậy, muốn làm tốt một bài văn cần phải xây dựng trước một dàn ý. Điều này không phải dễ dàng, nhất là với đối tượng học sinh tiểu học.

Đối với học sinh tiểu học, Tiếng Việt lớp 4 có thể coi như một bước ngoặt trong quá trình học tập bộ môn đặc biệt là phân môn Tập Làm Văn vì lên lớp 4 các em mới được học viết một bài văn hoàn chỉnh với đầy đủ ba phần: mở bài, thân bài, kết luận. Trong khi đó, ở các lớp dưới các em mới học viết các đoạn văn. Văn kể chuyện là thể loại đầu tiên mà học sinh được tiếp cận trong chương trình Tiếng Việt lớp 4 với kĩ năng xây dựng và viết được một bài văn hoàn chỉnh. Và để viết được một bài văn đầy đủ ý, đảm bảo kết cấu ba phần và hay học sinh không thể bỏ qua bước lập dàn ý. Hơn nữa lập dàn ý giúp học sinh tư duy về môn Tiếng Việt một cách khoa học, logic hơn.

Thực tế giáo dục môn Tiếng Việt cho thấy phân môn Tập làm văn chiếm tới 80 % tổng số điểm trong các bài kiểm tra viết. Vì vậy rèn luyện cách làm bài văn cho học sinh là rất quan trọng. Lập dàn ý là yếu tố quyết định đến sự thành công của bài làm. Bởi lẽ lập dàn ý giúp cho bài văn đầy đủ ý, có sự logic giữa các ý với nhau, đặc biệt phát huy sự sáng tạo cho học sinh trong quá trình làm bài. Để đạt mục đích này, việc cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản về việc lập dàn ý là rất quan trọng. Nó giúp các em hình thành được những kỹ năng và những thao tác cơ bản khi lập dàn ý. Từ đó, thúc đẩy các em tư duy khoa học về môn học này.

Trong thực tế, khi làm văn nói chung và làm văn kể chuyện nói riêng học sinh rất khó khăn, lúng túng trong việc làm thế nào để có ý và sắp xếp lại thành dàn ý. Điều đó đã làm cho bài viết của các em còn nhiều lỗi như không có ý, thiếu ý, trùng ý, lạc ý, ý lộn xộn

Về lịch sử nghiên cứu vấn đề này, đã có nhiều người đề cập đến nhưng có thể do từng đối tượng học sinh khác nhau, từng vùng miền khác nhau nên khi áp dụng chưa đem lại hiệu quả.

Trước thực tế đó, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài Một số biện pháp rèn kĩ năng lập dàn ý của bài văn kể chuyện cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Tân Lập, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa để giúp đỡ các em hoàn thành thao tác cơ bản này.

 

doc 18 trang thuychi01 27715
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp rèn kĩ năng lập dàn ý của bài văn kể chuyện cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Tân Lập, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1
Mở đầu
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
1
1.3
Đối tượng nghiên cứu
1
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
2
Nội dung
2
2.1
Cơ sở lí luận của vấn đề
2
2.2
Thực trạng vấn đề
3
2.3
Các giải pháp
5
2.3.1
Giải pháp thứ nhất: Hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu đề, tìm ý
5
2.3.2
Giải pháp thứ hai: Lập dàn ý thường xuyên
6
2.3.3
Giải pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý theo dạng đề
6
2.3.4
Giải pháp thứ tư: Lập dàn ý từ một bài văn mẫu
7
2.3.5
Giải pháp thứ năm: Lập dàn ý từ một dàn ý sai, sửa bài cho nhau
8
2.3.6
Giải pháp thứ sáu: Lập dàn ý cho các đề văn trong các tiết kể chuyện
9
2.3.7
Giải pháp thứ bảy: Lập dàn ý trong các tiết trả bài
10
2.4
Hiệu quả của sáng kiến
12
3
Kết luận và kiến nghị
14
3.1
Kết luận
14
3.2
Kiến nghị
15
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Nếu những viên gạch tạo nên công trình xây dựng vững chắc, bộ xương là cái khung của một cơ thể sống thì một bài văn lại được hình thành nên từ các ý, các chi tiết. Mỗi ý, mỗi chi tiết đó là một cái xương sống của bài văn. Vì vậy, muốn làm tốt một bài văn cần phải xây dựng trước một dàn ý. Điều này không phải dễ dàng, nhất là với đối tượng học sinh tiểu học. 
Đối với học sinh tiểu học, Tiếng Việt lớp 4 có thể coi như một bước ngoặt trong quá trình học tập bộ môn đặc biệt là phân môn Tập Làm Văn vì lên lớp 4 các em mới được học viết một bài văn hoàn chỉnh với đầy đủ ba phần: mở bài, thân bài, kết luận. Trong khi đó, ở các lớp dưới các em mới học viết các đoạn văn. Văn kể chuyện là thể loại đầu tiên mà học sinh được tiếp cận trong chương trình Tiếng Việt lớp 4 với kĩ năng xây dựng và viết được một bài văn hoàn chỉnh. Và để viết được một bài văn đầy đủ ý, đảm bảo kết cấu ba phần và hay học sinh không thể bỏ qua bước lập dàn ý. Hơn nữa lập dàn ý giúp học sinh tư duy về môn Tiếng Việt một cách khoa học, logic hơn. 
Thực tế giáo dục môn Tiếng Việt cho thấy phân môn Tập làm văn chiếm tới 80 % tổng số điểm trong các bài kiểm tra viết. Vì vậy rèn luyện cách làm bài văn cho học sinh là rất quan trọng. Lập dàn ý là yếu tố quyết định đến sự thành công của bài làm. Bởi lẽ lập dàn ý giúp cho bài văn đầy đủ ý, có sự logic giữa các ý với nhau, đặc biệt phát huy sự sáng tạo cho học sinh trong quá trình làm bài. Để đạt mục đích này, việc cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản về việc lập dàn ý là rất quan trọng. Nó giúp các em hình thành được những kỹ năng và những thao tác cơ bản khi lập dàn ý. Từ đó, thúc đẩy các em tư duy khoa học về môn học này.
Trong thực tế, khi làm văn nói chung và làm văn kể chuyện nói riêng học sinh rất khó khăn, lúng túng trong việc làm thế nào để có ý và sắp xếp lại thành dàn ý. Điều đó đã làm cho bài viết của các em còn nhiều lỗi như không có ý, thiếu ý, trùng ý, lạc ý, ý lộn xộn
Về lịch sử nghiên cứu vấn đề này, đã có nhiều người đề cập đến nhưng có thể do từng đối tượng học sinh khác nhau, từng vùng miền khác nhau nên khi áp dụng chưa đem lại hiệu quả.
Trước thực tế đó, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài Một số biện pháp rèn kĩ năng lập dàn ý của bài văn kể chuyện cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Tân Lập, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa để giúp đỡ các em hoàn thành thao tác cơ bản này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra các giải pháp để học sinh lớp 4 nhận thức rõ vai trò của việc lập dàn ý đối với một bài văn nói chung và văn kể chuyện nói riêng. Từ đó, hình thành cho các em kĩ năng và thói quen lập dàn ý trước khi viết bài. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về dàn ý, tìm ra các phương pháp hữu hiệu giúp học sinh lớp 4 biết cách làm dàn ý trong bài văn kể chuyện.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu vấn đề này tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp: Điều tra phỏng vấn, thống kê, xử lí số liệu. 
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Trong chương trình học hiện nay, môn Tiếng Việt được đưa vào giảng dạy với số lượng tiết học nhiều nhất so với các môn học khác. Trong năm phân môn được tích hợp chung một quyển sách đó, mỗi phân môn có một vai trò quan trọng nhất định. Phân môn Tập đọc rèn luyện cho các em kĩ năng đọc và những bài học về cuộc sống qua một tác phẩm cụ thể. Luyện từ và câu cung cấp những kiến thức về từ ngữ, câu cú, mở rộng vốn từ cho các em. Phân môn Chính tả giúp các em viết đúng, viết đẹp. Kể chuyện rèn kĩ năng nói, sự tự tin trong giao tiếp. Còn Tập làm văn là phân môn giúp học sinh có kỹ năng tổng hợp cao nhất của các phân môn kia, phát huy tối đa việc thực hành sáng tạo. Các kĩ năng đó được thể hiện qua việc các em viết một bài văn hoàn chỉnh. Và để thành thạo việc này học sinh không thể bỏ qua bước lập dàn ý.
 	Kể chuyện là kể lại một chuỗi sự việc có đầu có cuối, liên quan đến một hay một số nhân vật. Mỗi câu chuyện cần nói lên một điều có ý nghĩa. [1] Lập dàn ý là sắp xếp sự việc gì kể trước, sự việc gì kể sau để người đọc theo dõi được câu chuyện và hiểu được ý định của người viết [2]. Lập dàn ý là thao tác cần thiết, quyết định đến sự thành công của bài viết. Nhà văn nổi tiếng người Đức Gớt đã từng nói “Tất cả đều phụ thuộc vào bố cục”, Đôx-tôi-ep-ki nhà văn Nga thế kỷ XIX lại ao ước “nếu tìm được một bố cục đạt thì công việc sẽ nhanh như trượt trên mỡ”, hay những học sinh giỏi văn, những người đỗ đại học điểm cao môn văn đều chia sẻ bí quyết học văn là phải nắm chắc dàn ý Có thể nói dàn ý có chính xác thì bài viết mới đúng hướng và đạt chất lượng tốt.
	Khi giảng dạy, tôi đã tổng hợp được chương trình của phân môn Tập làm văn lớp 4 tập trung vào các kiến thức sau:
+ Kiến thức về văn kể chuyện ( Phân bố từ tuần 1 đến tuần 13) hình thành cho học sinh kiến thức về văn kể chuyện, cách tìm hiểu đề, cách tìm ý, lập dàn ý và viết bài văn kể chuyện có đầy đủ bố cục 3 phần và có yếu tố miêu tả. Trong đó:
- Các kiến cơ bản về văn kể chuyện: thế nào là kể chuyện, nhân vật trong chuyện, cốt truyện. ( Phân bố từ tuần 1 đến tuần 4)
- Cách xây dựng đoạn văn kể chuyện ( Phân bố từ tuần 5 đến tuần 7)
- Luyện tập phát triển câu chuyện ( Phân bố từ tuần 7 đến tuần 9)
- Mở bài, kết bài trong bài văn kể chuyện ( Phân bố từ tuần 11 đến tuần 12)
- Kiểm tra và ôn tập ( Phân bố từ tuần 12 đến tuần 13)
+ Kiến thức về văn miêu tả( Phân bố từ tuần 14 đến tuần 34) hình thành cho học sinh kiến thức về văn miêu tả, cách quan sát, tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý đến viết đoạn văn, bài văn có đầy đủ bố cục 3 phần: mở bài, thân bài, kết luận.
+ Các kiến thức khác bao gồm:
- Luyện tập giới thiệu địa phương học ở tuần 16 và tuần 20.
- Luyện tập tóm tắt tin tức học ở tuần 24, tuần 25 và tuần 29.
- Điền vào giấy tờ in sẵn học ở tuần 30, tuần 33 và 34.
	Từ đó, ta thấy rõ tầm quan trọng của văn kể chuyện đối với học sinh lớp 4. Đó là thể loại đầu tiên mà các em tiếp cận ở tiểu học với cách viết một bài văn kể chuyện hoàn chỉnh ( Trong khi ở lớp 1,2,3 các em mới được hình thành kĩ năng viết các đoạn văn kể chuyện ). Là giáo viên dạy Tiếng Việt ở lớp này tôi đặc biệt quan tâm tới việc năng cao kết quả học tập bộ môn của các em, đặc biệt là giúp các em có thể hình thành được một bài văn đúng và hay. Việc này không thể một sớm một chiều mà thành công. Nó cần được rèn luyện kiên trì, có phương pháp, đồng thời cần phải kết hợp với phân môn khác của môn Tiếng Việt và các môn học khác trong chương trình giáo dục liên môn hiện nay.
2. 2.Thực trạng vấn đề
2.2.1. Về phía giáo viên: 
2.1.1.1 Những thuận lợi trong giảng dạy:
	- Chương trình phân môn Tập làm văn trước đây, cả giáo viên và học sinh phải tự mò mẫm từng bước đi để đến với bài văn. Song chương trình Tiểu học mới đã xây dựng theo cấu trúc từ nắm khái niệm thể loại, xây dựng đoạn văn sau đó mới hoàn chỉnh một bài văn. Vì thế, các em không chỉ nắm được những yêu cầu cơ bản của từng dạng đề bài mà còn tích lũy được nhiều kiến thức bổ trợ khác nhau. Chất lượng bài làm của học sinh cũng nâng lên rõ rệt còn giáo viên có nhiều thời gian để định hướng cụ thể cho các em viết các phần của bài văn, đồng thời tự tin hơn khi dạy các tiết Tập làm văn. 
	- Học sinh trường tiểu học Tân Lập được học hai buổi trên ngày nên giáo viên có nhiều thời gian để rèn luyện thêm vào buổi 2 cho học sinh. Việc rèn cho các em làm dàn ý một cách thành thạo đòi hỏi nhiều thời gian mà một tiết học Tập làm văn chính khóa không thể đáp ứng được.
	- Bản thân tôi là giáo viên được đào tạo chuyên sâu về Ngữ văn, lại đươc phân công giảng dạy tập trung vào môn Tiếng Việt nên tôi có nhiều điều kiện để nghiên cứu, đầu tư vào chất lượng của bộ môn này.
2.2.1.2. Những khó khăn trong giảng dạy
	- Thời lượng để rèn cho học sinh làm dàn ý trong chương trình không được phân bố thành tiết cụ thể mà chỉ thông qua tiết Mở bài trong bài văn kể chuyện và Kết bài trong bài văn kể chuyện giáo viên tự định hướng cho học sinh là bài văn kể chuyện có ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Như vậy GV chưa có thời gian để hướng dẫn các em làm một dàn ý hoàn chỉnh chưa nói đến việc rèn luyện kĩ năng. Vì thế các em không biết làm dàn ý và không hề có thói quen này. Như vậy bước thứ ba trong việc làm một bài tập làm văn đã bị bỏ qua ngay từ đầu.
2. 2.2. Về phía học sinh:
- Học sinh không biết làm dàn ý, không làm dàn ý trước khi viết
Đây là vấn đề tưởng như vô lí nhưng lại có thật. Trong thực tế, học sinh không biết làm dàn ý còn rất nhiều. Khi giáo viên yêu cầu làm dàn ý thì các em thường viết luôn thành đoạn văn chỉ khác là các em gạch đầu dòng trước các đoạn đó. Chỉ một vài em biết làm nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót. Sở dĩ vì không thành thạo kỹ năng làm dàn ý nên hầu hết các em lớp 4 khi làm bài kể cả đề viết đoạn văn ngắn hay bài viết đều không làm dàn ý. Đọc đề xong là các em cắm cúi viết theo mạch cảm xúc, tờ giấy nháp các em để trắng không viết gì.
- Bài văn không có ý, thiếu ý, ý trùng nhau
Đây là lỗi cơ bản, quan trọng về nội dung nhưng lại hay mắc ở học sinh khi làm bài. Nguyên nhân của điều này là do các em không có thói quen làm dàn ý trước khi viết mà thường đọc đề xong thì viết ngay vào bài thi, viết theo mạch cảm xúc của mình. Chính vì vậy ý không phù hợp với yêu cầu của đề (lạc ý), các ý sắp xếp lộn xộn vẫn xảy ra. Hay khi đọc lại thấy thiếu ý nhưng không thể chèn vào được nữa vì đã hoàn thành xong bài làm. Cũng do viết theo mạch cảm xúc nên việc dẫn dắt của các em vô tình viết lại ý đã có ở phía trước. Thậm chí có khi cả bài văn của các em chỉ chú ý đến viết cho hay, cho bay bổng nhưng thực ra chỉ viết loanh quanh mà không đi vào phát triển một ý nào cả. Trường hợp này tuy ít nhưng vẫn còn xảy ra ở một vài học sinh yếu kém. 
- Bài văn thiếu phần mở bài
Lỗi này do các em nắm lí thuyết chưa chắc hoặc các em học lí thuyết nhưng chưa biết áp dụng vào thực hành. Phần mở bài trong văn kể chuyện cần phải giới thiệu nhân vật và sự việc nhưng các em không gạch sẵn các ý sẽ viết. Chẳng hạn với đề “Kể lại chuyện Rùa và Thỏ” thay vì viết mở bài : Nhân vật là ai? Sự việc xảy ra ở đâu? Khi nào? Thì nhiều em bỏ qua mà đi vào kể luôn với các từ ngữ thông thường để bắt đầu phần thân bài như “Một hôm...”, “Ngày đó...”, ...Rõ ràng các em chưa ý thức được tác dụng của dàn bài khi viết.
- Viết ngắn, chỉ nhắc đến tên sự việc
Khảo sát bài làm của các em hai năm gần đây cho thấy: bài viết 40 phút mà các em chỉ viết được khoảng 50 đến 60 chữ, em nào viết nhiều nhất cũng chỉ được hơn 90 chữ. Thậm chí có em chỉ viết được 2, 3 dòng. Điều này không phải các em không hiểu đề, không biết làm mà do các em chỉ nhắc đến tên sự việc, chỉ nhắc đến các ý mà không biết triển khai chúng ra một cách chi tiết, cụ thể. Chính vì cách kể như vậy nên bài làm của các em rất ngắn và thiếu ý. Nếu như các em làm dàn ý với những ý được được gạch ra rõ ràng theo một trình tự nhất định sẽ không mắc phải lỗi này, sẽ không có tình trạng bài làm thời gian 40 nhưng chưa hết giờ các em đã hoàn thành trong khi chất lượng lại chưa cao.
Để kiểm nghiệm cách làm của mình, tôi tiến hành thực nghiệm với lớp 4. 
+ Đề bài cụ thể như sau: Lập dàn ý cho đề văn sau: Kể một câu chuyện em đã được nghe hoặc được đọc về một người có tấm lòng nhân hậu.
+ Thời gian làm bài: 15 phút
+ Yêu cầu: học sinh lập được dàn bài có bố cục 3 phần
- Mở bài: Giới thiệu câu chuyện mà em định kể là câu chuyện gì, nhân vật chính là ai, lòng nhân hậu thể hiện qua việc gì?
- Thân bài: Kể lần lượt các sự việc của câu chuyện đó theo trình tự nhất định(ghi vắn tắt các sự việc chính của chuyện thành các ý)
- Kết bài: Nêu kết quả mà nhân vật đạt được hoặc nêu nhận xét về nhân vật, ý nghĩa câu chuyện.
Kết quả thu được như sau:
Khả năng làm dàn ý của học sinh lớp 4
Năm học
Số học sinh
Biết làm mức thành thạo
Biết làm mức
trung bình
Không biết làm
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ 
2015 – 2016
30
0
0%
10
33%
20
67%
2016 - 2017
31
0
0%
9
29%
22
71%
Thực trạng về việc làm dàn ý của học sinh trước khi viết bài:
Năm học
Số học sinh
Không bao giờ làm
Làm không
thường xuyên
Làm
thường xuyên
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
2015 – 2016
30
25
83.4%
5
16.6%
0
0%
2016 - 2017
31
25
80.6%
6
19.4%
0
0%
Qua kết quả khảo sát ta thấy học sinh không hề nhận thức được vai trò của việc lập dàn ý trước khi viết bài. Vì vậy, các em thiếu kĩ năng lập dàn ý dẫn đến bài văn mắc các lỗi như đã phân tích ở trên. Ngay thể loại đầu tiên mà các em đã không hình thành và rèn luyện kĩ năng này thì ở các thể loại tiếp theo các em sẽ viết bài khó khăn hơn.
	Để khắc phục thực trạng trên, tôi áp dụng một số biện pháp để rèn cho học sinh lập dàn ý cho bài văn kể chuyện như sau.
2.3. Các giải pháp:
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu đề, tìm ý
Muốn lập được dàn ý cho một bài văn trước hết học sinh phải hiểu đề bài, tức là phải tiến hành bước đầu tiên là tìm hiểu đề. Tìm hiểu đề là “tìm hiểu kĩ lời văn của đề để nắm vững yêu cầu của đề bài” và xác định được thể loại cần viết là gì. Tìm hiểu xem đề nêu ra những yêu cầu gì phải thực hiện, em hiểu yêu cầu ấy như thế nào? Chỉ cần bỏ ra một phút tìm hiểu đề nhưng tác dụng của nó mang lại rất lớn. Nó giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu của đề, đi đúng hướng tránh lạc đề. Ở bước này tôi luôn yêu cầu học sinh sau khi đọc đề xong phải suy nghĩ, gạch chân những từ ngữ quan trọng, xác định nội dung đề yêu cầu, phạm vi làm bài, thể loại... 
Ví dụ: cho đề văn : Kể một câu chuyện em đã được nghe hoặc được đọc về một người có tấm lòng nhân hậu.
Yêu cầu của đề là: Kể về một người có tấm lòng nhân hậu.
Phạm vi: em đã được nghe hoặc được đọc 
Thể loại: kể chuyện
 	 Ngôi kể: Ngôi thứ nhất.
	Sau bước tìm hiểu đề là tìm ý chính, học sinh sẽ phải “xác định nội dung sẽ viết theo yêu cầu của đề, cụ thể là xác định : nhân vật, sự việc, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của câu chuyện”. Thực tế cho thấy, tìm ý có lẽ là khó nhất đối với các em và làm thế nào để có ý mà sắp xếp thành dàn bài? Ở thao tác này, tôi hướng dẫn học sinh của mình tìm ý bằng cách sau : khi đọc đề, ý tưởng nào nảy sinh trong đầu thì ghi ngay ra giấy nháp để khỏi quên, sau đó ghi lại những ý mà em nhớ được khi đọc các bài làm tham khảo trước đó. Cuối cùng, kiểm tra lại rồi suy nghĩ bổ sung thêm những ý cần thiết rồi sắp xếp các ý theo một trình tự nhất định.
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Lập dàn ý thường xuyên
Trăm hay không bằng tay quen đã bao đời nay, lời răn dạy đó vẫn đúng. Đối với chương trình hiện nay không có một bài nào dành riêng cho hướng dẫn làm dàn ý nên tôi cho học sinh thực hành vào những thời điểm có thể, đặc biệt là ở các buổi 2. Khi làm các bài viết, tôi thường yêu cầu học sinh làm dàn bài thành một nội dung nhỏ của đề kiểm tra ( Thời lượng kiểm tra là 40 phút, tôi sẽ cho 2 câu. Câu 1 là lập dàn bài thời gian 10 phút, câu hai là viết bài văn thời gian là 30 phút ). Thao tác này tốn ít thời gian, học sinh có thể thực hiện được và qua đó tôi cũng có cơ hội kiểm tra tất cả các em, tất cả dàn ý của các em và bài làm phía sau đó có đúng theo dàn ý hay không. Tôi sẽ nhấn mạnh vấn đề là khi đã lập dàn ý thì các em cần viết bài theo dàn ý đó (chỉ thêm các ý còn thiếu trong khi viết bài) tránh tình trạng dàn ý một đằng, bài viết một nẻo. Như vậy, việc lập dàn ý không đem lại hiệu quả lại làm mất nhiều thời gian của học sinh.
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý theo dạng đề
Đối với mỗi một loại văn thường có những dạng cơ bản. Nếu như văn miêu tả có tả đồ vật, tả cây cối, tả người, tả cảnh, tả người kết hợp với cảnh thì văn kể chuyện cũng có kể người và kể việc, tôi hướng dẫn các em làm dàn bài khái quát chung cho hai dạng đó với những ý cơ bản sau:
* Dạng đề kể việc:
+ Mở bài: Giới thiệu nhân vật và sự việc
- Sự việc đó là gì?
- Sự việc xảy ra khi nào?
- Xảy ra với ai?
+ Thân bài: Kể diễn biến sự việc
- Nguyên nhân xảy ra
- Diễn biến
- Kết quả.
+ Kết bài: Ấn tượng, cảm nghĩ về sự việc đó.
 VD: Kể lại một lần em mắc lỗi.
Dàn ý:
+ Mở bài: Giới thiệu bản thân và một lần mắc lỗi của mình (ví dụ: một lần gian lận trong giờ kiểm tra toán)
+ Thân bài: Kể diễn biến câu chuyện
- Nguyên nhân mắc lỗi: Hôm trước mải chơi không học bài
- Hoàn cảnh phạm lỗi (giờ kiểm tra toán, bài khó, không làm được)
- Những hành động cụ thể khi phạm lỗi (em loay hoay không làm được, sắp hết thời gian, lo bị điểm kém, quay cóp...)
- Kết quả của hành động:
 Em được điểm cao, được tuyên dương, cô giáo tin cậy
 Giờ thao giảng có nhiều người dự, cô giáo gọi em lên làm bài tương tự em không làm được.
 Em xấu hổ, thấy tác hại của gian lận.
+ Kết bài: Rút ra bài học cho bản thân
 Gian lận không bao giờ mang lại kết quả tốt đẹp.
 Cần phải trung thực trong cuộc sống, đó là đức tính tốt.
*Dạng đề kể người:
+ Mở bài: Giới thiệu chung về người định kể
- Người đó là ai?
- Quan hệ với em?
- Đặc điểm nổi bật
+ Thân bài: Kể cụ thể về người đó
- Kể qua về ngoại hình
- Sở thích, công việc
- Tính cách, tình cảm với em và mọi người.
+ Kết bài: Ấn tượng, cảm nghĩ của em về người đó.
VD: Kể về một người thân của em (ông, bà, bố, mẹ, anh chị...)
Dàn ý:
+ Mở bài: Giới thiệu người thân (mẹ em, đảm đang, hết lòng yêu thương gia đình...)
+ Thân bài: Lựa chọn các chi tiết làm nổi bật đặc điểm về ngoại hình, tính nết, phẩm chất của người đó 
- Ngoại hình: vóc dáng, làn da, khuôn mặt, ...
- Những việc làm thường ngày của người ấy (ngoài công việc xã hội, mẹ còn chăm lo cho gia đình bằng việc nấu cơm, lau dọn nhà cửa, chăm sóc con cái...)
- Sự việc thể hiện rõ phẩm chất của người ấy và thể hiện rõ tình cảm của em với người ấy (em bị ốm, mẹ thức để lo lắng, chăm sóc em, mẹ mệt, em rất cảm động và thương mẹ...)
+ Kết bài: Nêu tình cảm, suy nghĩ của em với người thân định kể
Tuỳ vào từng đề để học sinh có các ý cụ thể, chi tiết nhưng đó cũng là dàn ý khái quát để các em có thể vận dụng.
2.3.4. Giải pháp thứ tư: Lập dàn ý từ một bài văn mẫu
Lập dàn ý là một khâu quan trọng và cần thiết. Thông thường, người ta lập dàn bài rồi mới viết văn nhưng tôi cho học sinh thử làm ngược lại. Tôi đưa ra một bài tham khảo rồi cho học sinh lập lại dàn ý từ bài văn đó. Đối với từng phần, từng đoạn trong bài văn tham khảo, tôi giúp học sinh biết cách tóm tắt thành ý bằng cách gạch đầu dòng. Cách này nghe có vẻ buồn cười nhưng thực chất nó lại giúp các em biết khái quát ý trong một đoạn văn, biết được lập ý là để triển khai thành một đoạn văn như vậy chứ không phải lập xong để đó. Cách này còn giúp học sinh rất nhiều trong khi tìm bố cục và nội dung từng phần trong tiết Tập đọc và Kể chuyện.
Bài văn mẫu : Kể về việc tốt em đã làm
Hôm đó, cô trả vở Toán cho cả lớp. Đó là môn yêu thích nhất của Linh. Nhưng không hiểu sao hôm nay vẻ mặt của Linh rất lo lắng, và tôi còn thấy Linh cứ quay bên này, quay bên kia mãi.
Cô vừa trả vở xong cho các bạn thì đến giờ ra chơi. Tôi liền đến bên Linh. Linh nói: “Hôm nay, bố mẹ tớ đi làm sớm, tớ không kịp xin mẹ tiền để mua bút Nét Hoa viết vào vở Toán”. Linh sực nhớ ra và reo lên: “ A! Đúng rồi! Cậu có hai cái bút Nét Hoa, cậu có thể cho tớ mượn một chiếc được không?” Tôi đứng ngẫm nghĩ một lúc rồi tự đặt câu hỏi cho chính mình: Có nên cho Linh mượn bút không nhỉ? Tôi hơi băn khoăn.Chiếc bút đó do mẹ tặng tôi nhân ngày sinh nhật nên tôi rất quý và giữ gìn rất cẩn thận. Tiếng trống đã vang lên. Tôi liền về chỗ của

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_ren_ki_nang_lap_dan_y_cua_bai_van_ke_chuyen.doc