Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Bốn, lớp Năm trường Tiểu học Thị trấn Cành Nàng

Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Bốn, lớp Năm trường Tiểu học Thị trấn Cành Nàng

Phân môn tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái độ, cảm xúc của mình. Vì vậy trong dạy tập làm văn nói chung và dạy văn miêu tả nói riêng, chúng ta coi trọng óc sáng tạo, cá tính, suy nghĩ riêng của học sinh thì các em mới tạo ra những sản phẩm chân thực, thể hiện đúng tình cảm và nhận thức của mình. Dạy văn miêu tả là dạy cho học sinh kỹ năng thực hành vận dụng những hiểu biết về Tiếng Việt để nói, viết được một bài văn miêu tả. ở khía cạnh khác, văn miêu tả còn giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng quan sát, tư duy, khả năng sử dụng các giác quan một cách tinh tế, nhạy cảm để tiếp nhận những tri thức vốn rất đa dạng và phong phú từ cuộc sống để biến nó thành cái độc đáo của riêng mình. Một bài văn miêu tả đúng và hay không chỉ dừng lại ở chỗ đúng câu, đúng từ, đúng chính tả, mà còn cần phải có sự gợi tả, gợi cảm cao. Trong quá trình làm bài, người viết sử dụng các thao tác tư duy, các mối quan hệ chặt chẽ của ngữ pháp văn bản. Ngoài ra bài viết còn là sự nhận thức đúng đắn về đối tượng miêu tả và thể hiện được cảm xúc chủ quan của người viết. Muốn làm được điều đó, người viết phải trải qua quá trình quan sát công phu, tỉ mỉ, phải cảm nhân đối tượng miêu tả bằng tất cả các giác quan. Từ quan sát trực tiếp các em có cơ sở để sáng tạo ra cái mới, cái đẹp, mới hình thành được bài viết trong ý thức. Được tiếp xúc với thiên nhiên, với loài vật, và nhìn nhận chúng với cái nhìn chân thực đầy thiện chí sẽ làm cho các em thấy mọi điều rất đáng yêu, đáng ca ngợi. Các em sẽ xây dựng cho mình năng lực cảm thụ riêng, cho một tấm lòng biết rung động trước cái hay, cái đẹp. Các em biết tự nhận xét về mình, biết loại trừ cái xấu để vươn tới cái chân - thiện - mĩ. Chính vì vậy, khi giảng dạy người giáo viên phải biết vận dụng quá trình nhận thức đó vào tiến trình bài giảng để phù hợp với tư tưởng, tâm sinh lý học sinh để dần dần hình thành nhân cách cho các em.

Vì trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng Việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác, đặc biệt chương trình mới đã chú trọng đến yêu cầu luyện tập thực hành về kĩ năng luyện nói, viết cho học sinh. Nhưng dạy tập làm văn ở lớp 4, lớp 5 có những điểm khó, vì nó đòi hỏi năng lực hướng dẫn và ứng xử linh hoạt của giáo viên trên lớp. Bởi vậy, làm thế nào để dạy tốt phân môn tập làm văn là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.

 

doc 16 trang thuychi01 6924
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Bốn, lớp Năm trường Tiểu học Thị trấn Cành Nàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC
Nội dung
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU
2
1.1. Lý do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. PHẦN NỘI DUNG
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng của vấn đê
4
2.3. Các giải pháp
5
2.4. Hiệu quả
12
3. KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ
13
3.1. Kết luận
13
3.2. Kiến nghị
13
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
15
5. DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT 
16
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Phân môn tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái độ, cảm xúc của mình. Vì vậy trong dạy tập làm văn nói chung và dạy văn miêu tả nói riêng, chúng ta coi trọng óc sáng tạo, cá tính, suy nghĩ riêng của học sinh thì các em mới tạo ra những sản phẩm chân thực, thể hiện đúng tình cảm và nhận thức của mình. Dạy văn miêu tả là dạy cho học sinh kỹ năng thực hành vận dụng những hiểu biết về Tiếng Việt để nói, viết được một bài văn miêu tả. ở khía cạnh khác, văn miêu tả còn giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng quan sát, tư duy, khả năng sử dụng các giác quan một cách tinh tế, nhạy cảm để tiếp nhận những tri thức vốn rất đa dạng và phong phú từ cuộc sống để biến nó thành cái độc đáo của riêng mình. Một bài văn miêu tả đúng và hay không chỉ dừng lại ở chỗ đúng câu, đúng từ, đúng chính tả, mà còn cần phải có sự gợi tả, gợi cảm cao. Trong quá trình làm bài, người viết sử dụng các thao tác tư duy, các mối quan hệ chặt chẽ của ngữ pháp văn bản. Ngoài ra bài viết còn là sự nhận thức đúng đắn về đối tượng miêu tả và thể hiện được cảm xúc chủ quan của người viết. Muốn làm được điều đó, người viết phải trải qua quá trình quan sát công phu, tỉ mỉ, phải cảm nhân đối tượng miêu tả bằng tất cả các giác quan. Từ quan sát trực tiếp các em có cơ sở để sáng tạo ra cái mới, cái đẹp, mới hình thành được bài viết trong ý thức. Được tiếp xúc với thiên nhiên, với loài vật, và nhìn nhận chúng với cái nhìn chân thực đầy thiện chí sẽ làm cho các em thấy mọi điều rất đáng yêu, đáng ca ngợi. Các em sẽ xây dựng cho mình năng lực cảm thụ riêng, cho một tấm lòng biết rung động trước cái hay, cái đẹp. Các em biết tự nhận xét về mình, biết loại trừ cái xấu để vươn tới cái chân - thiện - mĩ. Chính vì vậy, khi giảng dạy người giáo viên phải biết vận dụng quá trình nhận thức đó vào tiến trình bài giảng để phù hợp với tư tưởng, tâm sinh lý học sinh để dần dần hình thành nhân cách cho các em.
Vì trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng Việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác, đặc biệt chương trình mới đã chú trọng đến yêu cầu luyện tập thực hành về kĩ năng luyện nói, viết cho học sinh. Nhưng dạy tập làm văn ở lớp 4, lớp 5 có những điểm khó, vì nó đòi hỏi năng lực hướng dẫn và ứng xử linh hoạt của giáo viên trên lớp. Bởi vậy, làm thế nào để dạy tốt phân môn tập làm văn là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
 Là một giáo viên được phân công dạy lớp 4, lớp 5, qua thời gian giảng dạy tôi thấy học sinh của mình rất cố gắng học tập, đặc biệt là môn Tiếng Việt. Thực tế cho thấy khi học phân môn Tập làm văn thì nhiều em còn lúng túng, kết quả chưa cao. Với suy nghĩ: " Làm thế nào để học sinh viết được một bài văn hay và tự tin trong học tập ?” Để tháo gỡ những khó khăn trên, tôi quyết định chọn đề tài: "Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Bốn, lớp Năm trường Tiểu học Thị trấn Cành Nàng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
 Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn giảng dạy môn Tập làm văn trong trường Tiểu học Thị trấn Cành Nàng nói riêng, trong ngành giáo dục huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể.
	Chỉ tiêu: Cuối năm học, 100% học sinh có thể làm được bài văn miêu tả theo yêu cầu. Trên cơ sở kiến thức, kĩ năng về văn miêu tả đã được học, các em vận dụng tốt ở các lớp trên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu: 
	Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Bốn, lớp Năm trường Tiểu học Thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong qua trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
1 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.
2 - Phương pháp phân tích, tổng hợp.
3 - Phương pháp khảo sát
4 - Phương pháp luyện tập, thực hành
5 - Phương pháp thống kê.
6 - Phương pháp nhóm trao đổi, tranh luận.
 Trong các phương pháp trên, khi nghiên cứu tôi vận dụng hài hoà các phương pháp để tìm ra các giải pháp để đạt kết quả tối ưu nhất.
.
2. NỘI DUNG
	2.1. Cơ sở lí luận:
 Trong chương trình Tiếng Việt tiểu học, văn miêu tả chiếm một vị trí quan trọng. Ở lớp 4, văn miêu tả được dạy 30 tiết với ba kiểu bài cụ thể: Tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Chương trình TLV lớp 5 tiếp tục dạy về văn miêu tả với hai kiểu bài: Tả cảnh – 14 tiết, tả người – 12 tiết. Các bài văn thường gắn với chủ điểm của đơn vị học. Qúa trình thực hiện các kĩ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn là những cơ hội giúp học sinh mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn bài văn kể chuyện, miêu tả,góp phần nâng cao khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại của học sinh. Tư duy hình tượng của các em cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp tu từ như: so sánh, nhân hóa,... khi miêu tả cảnh, tả người. Học các tiết tập làm văn, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề tập làm văn, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng trong các đề bài. Những cơ hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với người và việc xung quanh được nảy nở, tâm hồn của học sinh thêm phong phú. Đó cũng là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho các em. 
	Trong văn miêu tả, người viết không đưa ra những nhận xét chung chung, hời hợt hoặc những lời đánh giá trừu tượng về đối tượng mà văn miêu tả giúp người đọc “nhìn” thấy sự vật, hiện tượng, cảnh vật, thiên nhiên, một cách sinh động, cụ thể qua việc sử dụng ngôn ngữ. Hình ảnh trong miêu tả không phải là hình ảnh chụp lại, sao chép lại nhưng nó giúp người đọc thấy rõ đối tượng như đang xem tận mắt. Miêu tả còn là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã ghi lại được khi quan sát, tìm hiểu đối tượng. Mỗi bài văn miêu tả đều thể hiện rõ tình cảm của người viết. Tình cảm đó có thể là sự yêu thương hay căm ghét; cũng có thể là sự gắn bó thân thiết hay hời hợt nông cạn. Trong văn miêu tả, đối tượng rất phong phú, đa dạng. Đó có thể là con người (ông bà, cha mẹ, thầy cô,); hay đó là phong cảnh thiên nhiên, con vật, đồ vật, nên chúng có những đặc điểm khác nhau. Chính vì thế, việc giúp các em thấy rõ những nét riêng đó của mỗi đối tượng là rất quan trọng, tạo điều kiện cho các em viết được những bài văn miêu tả vừa đúng thể loại, vừa mang những nét riêng của đối tượng và thể hiện cá tính của người viết.
 Muốn có bài tập làm văn đạt kết quả cao, đòi hỏi mỗi em phải chịu khó tập viết, tập nói, tập dùng từ, đặt câu, viết đoạn nhiều lần. Mà không ngại tập đi tập lại, không ngại sửa đi sửa lại đoạn văn, câu văn đã viết. Và chính bản thân người giáo viên cũng kiên trì hướng dẫn học sinh luyện tập và giúp các em sửa chữa các sai sót. Một câu châm ngôn đã nói: “Tài năng một phần mười là bẩm sinh, chín phần mười là do lao động kiên trì làm nên”.
	2.2. Thực trạng:
 Qua thực tế việc dạy học ở trường Tiểu học Thị trấn, đặc biệt là lớp 4, lớp 5 tôi nhận thấy một số vấn đề như sau:
a. Về phía học sinh: 
- Đa số bài viết của các em chưa có sự sáng tạo, còn mang tính liệt kê nhiều hơn miêu tả.
 - Bài viết chưa chọn được nhiều ý hay, miêu tả còn hời hợt sáo rỗng, kém tự nhiên.
- Các em sử dụng từ ngữ còn có nhiều chỗ chưa hợp lý, giọng văn gượng gạo.
 - Chưa bày tỏ được tình cảm chân thực với đối tượng miêu tả. Các em còn bắt chước bài văn mẫu một cách dập khuôn, máy móc; chưa tìm được cái mới, cái riêng, cái độc đáo.
 - Chưa sử dụng được các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hóa,) khi miêu tả.
 Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh lớp 4B; Lớp 4A cuối học kì I năm học 2016- 2017 có số liệu cụ thể như sau:
Trước khi áp dụng (cuối HKI )
Điểm
 9-10
7-8
5-6
 < 5
Lớp 4B
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2
8
5
20
14
56
4
16
Điểm
 9-10
7-8
5-6
 < 5
Lớp 4A
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2
7,7
6
23,1
15
57,7
3
11,5
b. Về giáo viên:
- Khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi còn chung chung, chưa có những câu hỏi gợi mở để học sinh tự quan sát, khám phá đối tượng.
- Khi quan sát, giáo viên chưa biết cách hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý diễn ra theo một trình tự nhất định.
- Hướng dẫn học sinh quan sát còn hời hợt bên ngoài, chưa đi sâu khám phá đặc điểm bên trong của đối tượng.
- Giáo viên chưa biết cách hướng dẫn học sinh tích lũy vốn sống để phát triển vốn từ của mình để làm bài.
2.3. Các giải pháp:
* Giải pháp thứ nhất: Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý và ghi chép.
Quan sát trong văn miêu tả rất quan trọng. Quan sát để làm văn nhằm kể, tả một đối tượng cụ thể, nó đòi hỏi phải vừa chi tiết, cụ thể vừa có tính khái quát. Qua chi tiết, các em phải làm cho người đọc thấy được bản chất của sự vật. Vì vậy quan sát phải có lựa chọn. Nó yêu cầu các chi tiết phải cụ thể nhưng đó không phải là những chi tiết rời rạc, tản mạn mang tính chất liệt kê. Chúng ta không cần đưa ra quá nhiều chi tiết mà phải chọn lọc. Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của người và vật. Khi quan sát cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan và điều quan trọng là phải quan sát bằng tấm lòng. Để quan sát tốt cần xác định vị trí quan sát, trình tự và nội dung quan sát. Khi quan sát cần quan sát theo một trình tự nhất định.
Ví dụ: Bài văn tả con vật, hướng dẫn học sinh quan sát: Trước tiên quan sát hình dáng con vật (con vật cao, to thế nào), màu lông, sau đó quan sát các bộ phận tiêu biểu của con vật (ví dụ: mặt, mắt mũi tai, miệng, chân, thân đuôi,...), hoạt động của con vật (chạy, nhảy, ăn, kiếm mồi, làm việc theo sự sai khiến của con người, ...), hoạt động của người với con vật (chăm sóc : cho ăn, tắm, dạy làm việc.
Thường thường khi quan sát học sinh thấy cái gì tả cái đó nên sau khi quan sát chi tiết và tỉ mỉ, cần hướng dẫn học sinh lựa chọn để giữ lại những chi tiết quan sát tiêu biểu cho con vật đó về hình dáng, màu sắc, một vài bộ phận tiêu biểu, hoạt động, lợi ích. Đặc biệt tìm ra cái không bình thường trong cái bình thường và thể hiện được cái nghịch lí đó.
Ví dụ: Đề bài: Quan sát một con vật nuôi trong nhà mà em thích và ghi lại những quan sát của em.
Tôi sẽ gợi ý cho học sinh bằng những câu hỏi như sau:
- Tên con vật, ai nuôi, đã được bao lâu, vẻ đẹp của con vật khiến em yêu thích?
Hình dáng của con vật, màu sắc của lông, một đặc điểm nổi bật nhất của con vật (đặc điểm về giống loài, về tính tình và thói quen, về hoạt động, về hình dáng, ...). 
Một số bộ phận của con vật:
+ Đầu: hinh dáng, màu lông, hoạt động, đặc điểm riêng.
+ Mặt: mắt, tai, mũi, miệng có đặc điểm gì (mỗi bộ phận cần quan sát hình dáng, Hình dáng, màu sắc, hoạt động, đặc điểm riêng khác,...)? 
+ Chân: mấy chân (hoặc mấy vây), hình dáng, màu sắc, hoạt động, đặc điểm riêng khác?
Một số hoạt động của con vật: ăn, chạy nhảy hoặc chơi, bơi,...
Sau khi quan sát con mèo và với các câu hỏi gợi ý trên tất cả 34/35 học sinh lớp có bài làm và kết quả thu được tương đối tốt. Cụ thể: có 
11 bài đạt điểm 9- 10, 
15 bài đạt điểm 7- 8, còn 
8 bài đạt điểm 5- 6 không có bài dưới điểm 5. Tiêu biểu nhất là bài của em Bùi Anh Tú
* Giải pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh lựa chọn từ ngữ (màu sắc, hình dáng, âm thanh, cảm xúc), dùng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa,...) trong bài văn miêu tả.
Một bài văn miêu tả hay là bài văn giàu chất gợi cảm trên cơ sở biết sử dụng các tính từ, từ tượng thanh, từ tượng hình, từ láy và các hình thức tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ,...tạo nên sự hòa đồng, vừa dễ nhận thấy, vừa giàu sức gợi cảm, vừa gần gũi, vừa gợi tả.
Vì vậy một trong những yếu tố quan trọng làm nên cái hay, cái đẹp của bài văn miêu tả chính là biết sử dụng từ ngữ gợi tả và dùng các biện pháp tu từ (hình ảnh so sánh, nhân hóa,...). Chính vì thế khi hướng dẫn học sinh miêu tả , tôi luôn hướng dẫn học sinh:
- Muốn tả hay về màu sắc nên dùng các từ láy hoặc từ ghép để tả vì những từ này thể hiện được nhiều sắc độ của màu.
Ví dụ: tả màu lông của con vật, giáo viên đưa các từ như đen, trắng, xám,...
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm được những từ ghép hoặc từ láy để thay thế cho từ “đen”tả bộ lông của chú mèo này (đen tuyền, đen bóng, đen mượt; trắng muốt, xam xám, ...) hoặc các cụm từ gợi hình như trăng và đen, vàng và có những xám, đen và có những khoang trắng ở cổ,....).
- Muốn tả hay về hình dáng hoặc ngọai hình, bộ phận của đồ vật, cây cối, con vật, người hay khi tả hình dáng từng sự vật trong cảnh (cây cối, con vật, các sự vật có trong tự nhiên như bầu trời, đám mây, núi, suối,....nên so sánh tưởng tượng, liên tưởng để tạo ra các hình ảnh so sánh hay nhân hóa làm cho sự vật miêu tả như có tâm trạng, tính nết, cách ứng xử của con người, giúp người đọc, người nghe hình dung rõ ràng, cụ thể hơn về con vật hay bộ phận cơ thể của nó, đồng thời gợi cảm giác thú vị ở người nghe, người đọc.
Ví dụ: Tả hình dáng con cá vàng có thể so sánh với nàng công chúa con vua Thủy Tề,... hay khi tả hai cái tai của con mèo có thể so sánh với hai chiếc nấm mèo, tả cái miệng của em bé: đôi môi bé căng mọng, đỏ chót như cánh hoa hồng nhung,.... Hay khi tả hình dáng quả bưởi có thể so sánh nó với quả bóng tròn và to, tả những đóa nhung có thể nhân hóa nó thành những nàng công chúa kiêu hãnh... 
- Muốn tả hay về âm thanh của sự vật dùng các từ mô phỏng âm thanh có trong tự nhiên.
Ví dụ: Tả tiếng chi khướu hót có thể dùng các từ mô phỏng âm thanh thánh thót như tiếng sáo diều khi gần, khi xa. Tả tiếng cười của người đàn ông lớn tuổi có thể dùng từ khà khà,... tả tiếng cười của trẻ con có thể dùng từ khúc khích, tiếng mưa rơi nên dùng từ rào rào (nếu mưa to và mạnh), mưa lộp độp (nếu mưa chậm nhưng nặng hạt),...
Sau khi hướng dẫn học sinh cách lựa chọn từ ngữ và sử dụng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa,...) trong bài văn miêu tả tôi đã cho học thực hành thông qua đề kiểm tra sau:
Em hãy viết một đoạn văn 5- 7 câu tả về một vài bộ phận của cây trong đó có sử dụng phép so sanh, nhân hóa.
Nhìn chung tất cả 25 học sinh lớp 5B đều đã sử dụng phép so sánh, nhân hóa để viết đoạn văn theo đúng yêu cầu của đề bài một cách có hiệu quả và bài làm được đánh giá tốt nhất là bài làm của em Trần Phương Thảo, nội dung như sau:
* Giải pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học các phân môn khác: 
* Giúp các em tích lũy vốn từ ngữ miêu tả qua các bài tập đọc: Những bài tập đọc là các bài văn miêu tả. Hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, sự sáng tạo của các nhà văn khi dùng chúng.
Ví dụ, dạy bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (Tiếng Việt 5, tập 1), tôi đã phân tích cách dùng từ ngữ để diễn tả màu sắc của tác giả. Tác giả đã sử dụng rất nhiều từ chỉ màu vàng nhưng mỗi từ được dùng để miêu tả những đối tượng khác nhau. Các từ ngữ tác giả chọn trong bài văn miêu tả rất chính xác, phù hợp với đối tượng miêu tả. Hướng dẫn học sinh nhận xét cách dùng từ của tác giả để từ đó các em thấy được giá trị của cách dùng từ khi viết bài, không dùng từ một cách tùy tiện.
Ví dụ: Màu lúa chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngã màu vàng hoe. 
+ Nếu các em dùng hai từ “vàng xuộm” và “vàng hoe” đổi chỗ cho nhau đọc lên em cảm thấy thế nào?
+ Màu lúa chín dưới đồng vàng hoe. Nắng nhạt ngả màu vàng xuộm.
Như vậy câu văn không hay, không phản ánh được đúng đối tượng miêu tả, cách dùng từ như vậy là thiếu chính xác. Tôi đã cho học sinh dùng từ chỉ màu vàng khác thay thế vào câu văn để các em so sánh. Qua đó học sinh thấy được giá trị của việc dùng từ để tích lũy vào vốn từ của mình.
 Cũng còn có rất nhiều bài tập đọc cho ta thấy cách dùng từ ngữ miêu tả rất hay và thật đa dạng. Tôi luôn tận dụng vốn quý này để nhân vốn từ ngữ của từng học sinh bằng cách cho học sinh ghi vào sổ tay những từ ngữ hoặc những câu văn hay. Đồng thời tôi thường xuyên theo dõi và xem quyển sổ tay của học sinh trước mỗi giờ tập làm văn. Có như vậy mới giúp học sinh tích dần vốn từ ngữ của mình.
 * Khi dạy luyện từ và câu
 Dạy-học phân môn từ ngữ cũng là một dịp để các em không chỉ hiểu rõ từ mà còn mở rộng chúng khi dùng những từ gần nghĩa hoặc trái nghĩa.
 Ví dụ: Các em đã được học bài mở rộng vốn từ : Nhân hậu – Đoàn kết ở lớp 4, do vậy khi dạy bài Tổng kết vốn từ, tôi đưa ra bài tập: 
	"Tìm những từ nói lên lòng nhân hậu và đoàn kết của con người?”
	(Học sinh có thể tìm các từ: yêu quý, kính trọng, trên kính dưới nhường, hiếu thảo, gần gũi, thân mật, hòa thuận, đầm ấm, gắn bó, thương yêu, đùm bọc, che chở, san sẻ, chan hòa...)
	Hay trong tiết luyện của tuần này tôi đưa thêm cho các em bài tập:
	"Tìm các từ miêu tả tính tình vui vẻ của một người?”
	(Do đã được học bài mở rộng vốn từ: Lạc quan yêu đời ở lớp 4 nên hầu hết các em tìm được các từ: Vui vẻ, vui sướng, vui thích, vui tính, vui tươi, vui nhộn...)
 Ví dụ: Khi miêu tả người tôi thường nêu lên cho học sinh thấy bên cạnh từ “đẹp” còn có hàng lọat từ ngữ khác: xinh xắn, dễ coi, dễ nhìn. Bên cạnh từ “ẳm” còn có nhiều từ: bế, bồng, ôm, nâng, địu, cõng
	 Từ đó, tôi đã giúp các em có vốn từ ngữ về miêu tả đặc điểm tính cách của người, giúp các em vận dụng vào viết văn. Em Trần Linh lớp tôi đã viết được đoạn văn như sau:
	Bạn Phương là một người vui vẻ, sống chan hòa với mọi người. Phương sẵn sàng giúp đỡ bạn bè lúc khó khăn. Ở nhà, đối với ông bà, cha mẹ Phương là người cháu rất hiếu thảo, đối với em Phương là người chị dịu dàng, luôn nhường nhịn các em...
 Việc học và mở rộng vốn từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình cũng có ý nghĩa tích cực đối với việc tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả của học sinh (róc rách, rì rầm, thánh thót, ngân nga; ngoằn ngoèo, chót vót, thăm thẳm, mênh mông, ngọt ngào). Những từ ngữ này giúp rất nhiều cho học sinh khi tả các con vật, cây cối, tả người, tả cảnh
 Đọc tác phẩm văn học truyện ngắn, thơ cũng là dịp để học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả. Với biện pháp này, tôi thường xuyên nhắc nhở học sinh đọc ở nhà, xem các bài đọc thêm, tham khảo những bài văn hay.
 Tiết luyện từ ở lớp 4, lớp 5 có loại bài dùng từ đặt câu, viết thành một đoạn văn ngắn theo chủ đề đã xác định nhằm luyện cho học sinh cuối bậc Tiểu học kĩ năng sử dụng từ ngữ ở mức độ cao, trực tiếp phục vụ cho việc làm văn. Ở những bài tập này, tôi gợi ý hướng làm bài cho các em bằng một số câu hỏi nhằm viết một đoạn văn mạch lạc, đúng chủ đề cho trước (hoặc vấn đề do học sinh tự chọn theo yêu cầu của đề bài).
	Tôi đưa ra một chủ đề, yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ thuộc chủ đề đó và viết một đoạn văn miêu tả có sử dụng các từ mà các em vừa tìm được.
Ví dụ: Đưa ra chủ đề “mùa xuân”, các em học sinh tìm được là: hoa đào, mưa phùn, chim én, đâm chồi, ấm áp,
 Tôi đưa ra một số từ ngữ, yêu cầu học sinh sắp xếp các từ ngữ đó theo chủ đề và đặt tên cho các chủ đề phù hợp với các từ mà các em vừa sắp xếp được.
 Ví dụ: Cho các từ sau:
	Cao lớn, trung thực, lười nhác, giả dối, nhỏ bé, chăm chỉ, sần sùi, trắng trẻo, mịn màng, lực lưỡng, mảnh khảnh, đen đủi, mập mạp, còm nhom, gian giảo, nhút nhát, bạo dạn, chất phác, nhu nhược, hèn yếu, anh dũng, siêng năng, lười biếng...
	- Hãy chia các từ trên thành hai nhóm và đặt tên cho mỗi nhóm.
	- Tìm những cặp từ trái nghĩa trong cùng nhóm.
	Ở bài tập này giúp học sinh có khả năng lựa chọn một từ trong nhóm từ cùng nghĩa - gần ng

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_bien_phap_ren_ki_nang_lam_van_mieu_ta_cho_hoc_sinh_lo.doc