Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy Hóa học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ 21 là thế kỷ đi vào nền văn minh trí tuệ với các xu thế đã rõ ràng, sự phát triển của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức, xã hội học tập. Sự phát triển xã hội và đổi mới đất nước đang đòi hỏi cấp bách phải nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công việc đổi mới này. Cùng với những thay đổi về nội dung, sự đổi mới về nền giáo dục cần có những đổi mới căn bản về phương pháp dạy học
Môn Hóa học ở trường THPT giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới con người thông qua các bài học, giờ thực hành của Hóa học. Tuy nhiên, đối với môn Hoá học: Các khái niệm, định luật, hiện tượng, bản chất Hoá học nhiều khi rất trừu tượng, khó hiểu, khô cứng làm học sinh khó tiếp thu, dễ nhàm chán, đặc biệt với những học sinh có tư duy không tốt sẽ có xu hướng dẫn đến sợ bộ môn này. Xuất phát từ thực tế đó và với kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Hoá học, Tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn Hoá của Học sinh, từ đó dần nâng cao chất lượng bộ môn Hoá ở trường phổ thông hiện nay, người giáo viên ngoài việc phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm các hiện tượng hoá học thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau. Có những vấn đề hoá học có thể giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên và ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học; làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp. Từ những lí do đó tôi chọn đề tài “Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy Hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh”
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN VÀO MỘT SỐ BÀI DẠY HÓA HỌC LỚP 12 NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH \ Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc môn: Hóa học THANH HOÁ NĂM 2016 MỤC LỤC Trang PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu PHẦN B: PHẦN NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lí luận 2. Thực trạng 3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện 4. Hiệu quả của SKKN PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận Kiến nghị Tài liệu tham khảo 1 1 1 1 1 2 2 2 3 14 14 14 15 16 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ 21 là thế kỷ đi vào nền văn minh trí tuệ với các xu thế đã rõ ràng, sự phát triển của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức, xã hội học tập. Sự phát triển xã hội và đổi mới đất nước đang đòi hỏi cấp bách phải nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công việc đổi mới này. Cùng với những thay đổi về nội dung, sự đổi mới về nền giáo dục cần có những đổi mới căn bản về phương pháp dạy học Môn Hóa học ở trường THPT giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới con người thông qua các bài học, giờ thực hành của Hóa học. Tuy nhiên, đối với môn Hoá học: Các khái niệm, định luật, hiện tượng, bản chất Hoá học nhiều khi rất trừu tượng, khó hiểu, khô cứng làm học sinh khó tiếp thu, dễ nhàm chán, đặc biệt với những học sinh có tư duy không tốt sẽ có xu hướng dẫn đến sợ bộ môn này. Xuất phát từ thực tế đó và với kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Hoá học, Tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn Hoá của Học sinh, từ đó dần nâng cao chất lượng bộ môn Hoá ở trường phổ thông hiện nay, người giáo viên ngoài việc phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm các hiện tượng hoá học thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau. Có những vấn đề hoá học có thể giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong tự nhiên và ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học; làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp. Từ những lí do đó tôi chọn đề tài “Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy Hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh” 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lựa chọn đề tài “Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy Hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh” và phương pháp sử dụng chúng theo hướng dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực nhận thức tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, góp phần đổi mới phương pháp đạy học ở trường phổ thông 3. Đối tượng nghiên cứu Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy Hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thực hiện các hoạt động chủ yếu theo một quy trình sau: Thu thập thông tin: thông qua việc tự làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm do giáo viên biểu diễn, quan sát hiện tượng tự nhiên, đọc tài liệu, xem tranh ảnh, ôn lại những kiến thức đã học, học sinh sẽ thu được những thông tin cần thiết về các hiện tượng hóa học cần học. Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học sinh căn cứ vào thông tin đã thu thập để rút ra những kết luận cần thiết. B. PHẦN NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lí luận của vấn đề: Đối với học sinh THPT các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Người giáo viên dạy hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, trong đó phương pháp dạy học bằng cách lồng ghép giải thích các hiện tượng hóa học thực tiễn trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy môn hóa học rất gần gũi với các em. Tuy nhiên tùy thuộc vào từng bài giảng cụ thể giáo viên có thể lồng ghép giải thích các hiện tượng trong thực tế vào bài dạy của mình cho phù hợp. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: a) Thuận lợi: - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường. - Đội ngũ giáo viên môn Hoá đều trẻ, nhiệt tình trong công việc. - Đa số học sinh có ý thức học tập tốt. b) Khó khăn: - Bản thân kinh nghiệm giảng dạy cũng như quản lý học sinh còn nhiều hạn chế. - Một số học sinh còn rất mơ hồ trong việc nắm bắt các kiến thức, việc nắm bắt kiến thức bộ môn hóa học của các em chỉ ở mức độ thấp đó là nắm các khái niệm, định luật một cách máy móc. Học sinh chưa biết và vận dụng chưa đi sâu vào quá trình giải thích, giải quyết các vấn đề nên các em hay nhàm chán. - Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. - Nhà trường chưa có phòng thực hành bộ môn nên các tiết thực hành chỉ dừng lại ở mức độ thí nghiệm biểu diễn của giáo viên vì vậy không tạo được mục tiêu thúc đẩy ý thức học tập cũng như sự yêu thích bộ môn cho học sinh. - Việc đổi mới phương pháp dạy học gặp nhiều khó khăn, do đặc trưng của bộ môn, đặc thù học sinh vùng miền. - Phần lớn HS thiếu hụt kiến thức nền cơ bản của THCS. Để xem Học sinh có thích học môn Hoá hay không, Tôi đặt ra câu hỏi: Em có thích học môn Hoá không? Lớp SL học sinh Rất thích học Bình thường Không thích học SL % SL % SL % 12A6 37 5 13,5 15 40,5 17 46,0 12A9 39 6 15,3 20 51,2 13 23,5 12A11 33 10 30,3 15 45,5 8 24,2 Lớp SL học sinh Điểm dưới TB Điểm TB Điểm khá Điểm giỏi SL % SL % SL % SL % 12A6 37 2 5,4 21 56,8 13 35,1 1 2,7 12A9 39 6 15,4 23 59,0 10 25,6 12A11 33 3 9,0 18 54,5 11 33,3 1 3,2 3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện: Trong dạy và học Hoá học, việc đưa các câu hỏi thực tiễn vào trong giờ học sẽ giúp hoá học gần gũi với học sinh, tạo hứng thú đồng thời giúp các em hiểu biết hơn về cuộc sống. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng người học. Đôi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá học. Tuy nhiên, thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống”. 3.1. Các giải pháp 3.1.1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường lồng ghép vào cuối bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo. 3.1.2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh. Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông. 3.1.3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập 3.1.4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài toán hóa đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào? 3.1.5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá. 3.1.6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn. 3.1.7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn hàng ngày. 3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện Trong quá trình thực hiện tôi đã lựa chọn những nội dung, hiện tượng trong thực tế có liên quan đến các bài học trong chương trình hóa học 12 CB và phân bố chúng vào cụ thể từng bài học như sau: Bài 2 : LIPIT Ví dụ 1: Tại sao không nên tái sử dụng dầu mỡ đã qua rán ở nhiệt độ cao hoặc khi mỡ, dầu không còn trong, đã sử dụng nhiều lần, có màu đen, mùi khét. Giải thích: Khi đun ở nhiệt độ không quá 1020C, lipit không có biến đổi đáng kể ngoài hoá lỏng. Khi đun lâu ở nhiệt độ cao, các axit béo không no sẽ bị oxi hoá làm mất tác dụng có ích với cơ thể. Các liên kết kép trong cấu trúc của chúng bị bẻ gãy tạo thành sản phẩm trung gian như peoxit, anđehit có hại. Vì vậy, cần lưu ý cách sử dụng sao cho an toàn và hiệu quả, nhất là không nên sử dụng dầu chiên đi chiên lại nhiều lần. Bên cạnh hương vị và sự hấp dẫn tiêu chí tốt cho sức khỏe cũng rất quan trọng. Ví dụ 2. a) Chất béo nào dễ bị ôi hơn: dầu thực vật hay mỡ động vật? Vì sao? b) Các dầu thực vật bán trên thị trường không bị ôi trong thời hạn bảo quản? Vì sao? Giải thích: a) Chất béo lỏng (dầu thực vật ) là chất béo chứa nhiều gốc axit không no, nên bị oxi hoá nhiều hơn do đó dễ bị ôi hơn chất béo rắn (mỡ lợn : là chất béo chứa nhiều gốc axit béo no, rất ít gốc axit béo không no). b) Người ta thường pha thêm vào dầu ăn những chất chống oxi hoá để chống ôi mỡ như Ethoxyquin. Ví dụ 3 : Dầu mỡ động - thực vật để lâu thường có mùi khó chịu, ta gọi đó là hiện tượng ôi mỡ? Cho biết nguyên nhân gây nên hiện tượng ôi mỡ. Biện pháp ngăn ngừa quá trình ôi mỡ? Giải thích: Dầu mỡ để lâu ngày trở thành có mùi khét, khó chịu đó là sự ôi mỡ. Có nhiều nguyên nhân gây ôi mỡ, nhưng chủ yếu nhất là do oxi không khí cộng vào nối đôi ở gốc axit không no tạo ra peoxit, chất này bị phân huỷ thành các anđehit có mùi khó chịu. Có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau: Để tránh ôi mỡ cần bảo quản dầu mỡ ở nơi mát mẻ, đựng đầy, nút kín (tránh oxi của không khí) và có thể cho vào mỡ những chất chống oxi hoá không độc hại. Áp dụng: Đây là những câu hỏi rất gần gũi với các em, có thể có nhiều em biết điều này nhưng cũng có em không biết. Qua câu hỏi này giúp các em biết sử dụng dầu mỡ đúng cách. Câu hỏi này giáo viên có thể đặt ra khi củng cố bài học. Bài 5 : GLUCOZƠ Ví dụ : Khi muối dưa, người ta thường chọn dưa già hoặc phơi héo và cho thêm ít đường, nén dưa ngập trong nước. Hãy giải thích tại sao? Giải thích: Người ta thường cho thêm đường, chọn rau già hoặc rau được phơi héo sẽ có hàm lượng đường cao hơn, do đó quá trình làm dưa chua nhanh hơn (đường chuyển hoá thành axit). Dưa được nén ngập trong nước vì quá trình lên men làm chua dưa là loại vi khuẩn yếm khí. Áp dụng : Đây là một câu hỏi có ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống. Vấn đề này giáo viên có thể xen vào sau khi dạy phần tính chất vật lý của glucozơ. Bài 6 : SACCAROZƠ – TINH BỘT – XENLULOZƠ Ví dụ 1: Khi ăn sắn bị ngộ độc, người ta thường giải độc bằng nước đường. Bằng kiến thức hoá học, hãy giải thích cách làm trên. Giải thích : Khi ta uống nước đường (đường saccarorơ) vào dạ dày sẽ bị thuỷ phân cho đường glucozơ. Sắn chứa axit HCN là chất gây độc. Khi HCN gặp glucozơ sẽ có phản ứng xảy ra ở nhóm chức anđehit, sau đó tạo ra hợp chất dễ thuỷ phân giải phóng NH3. Như vậy HCN đã chuyển sang hợp chất không độc theo phương trình: Áp dụng : Vấn đề này giáo viên sẽ đặt ra khi dạy xong phần saccarozơ. Ví dụ 2: Nói về việc ăn cơm, các cụ xưa có câu: “Nhai kĩ no lâu”. Bằng những hiểu biết của mình, em hãy giải thích câu nói trên? Giải thích: Tiêu hoá là quá trình biến đổi thức ăn từ dạng phức tạp thành dạng đơn giản. Cơm có thành phần chính là tinh bột, thực chất đó là một polisaccarit. Khi ta ăn cơm, đầu tiên tinh bột sẽ bị thuỷ phân một phần bởi các enzim trong tuyến nước bọt. Sau đó chúng lại tiếp tục bị thuỷ phân khi đi vào trong dạ dày và ruột. Vì vậy nếu ta nhai càng lâu thì quá trình thuỷ phân bởi enzim sẽ triệt để hơn do đó năng lượng được cung cấp nhiều hơn, vì vậy ta cảm thấy no lâu hơn. Ví dụ 3: Tại sao những người bị đau dạ dày thường được khuyên nên ăn cháy cơm hoặc bánh mì? Giải thích : Trong cháy cơm và bánh mì, dưới tác dụng của nhiệt, một phần tinh bột đã biến thành đextrin (oligosaccarit) nên khi ta ăn, chúng dễ bị thuỷ phân thành saccarit ngay bởi các enzim trong nước bọt, nên dạ dày sẽ phải làm việc ít hơn. Áp dụng : Ví dụ 2,3 đây là những ví dụ được đúc rút ra từ kinh nghiệm của ông cha ta. Giáo viên có thể đề cập vấn đề trên vấn đề trên ở phần phản ứng thủy phân của tinh bột trong bài TINH BỘT nhằm cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hóa tinh bột trong khi ăn. Học sinh cũng có thể kiểm nghiệm được trong khi ăn. Bài 9 : AMIN Canh chua cá lóc Ví dụ: Khi nấu canh cá ta thường cho thêm các quả chua như khế chua, dọc, sấu, me Hãy giải thích ? Giải thích: Trong cá có các amin như: đimetyl amin, trimetyl amin là chất tạo ra mùi tanh của cá. Khi cho thêm chất chua, tức là cho thêm axit vào để chúng tác dụng với các amin trên tạo ra muối làm giảm độ tanh của cá. Áp dụng : Giáo viên có thể đặt câu hỏi này ở phần củng cố bài học. Bài 11: PEPTIT VÀ PROTEIN Ví dụ 1: Sữa đậu nành rất bổ dưỡng cho sức khoẻ nhưng cũng có thể trở nên vô dụng, thậm chí gây độc nếu dùng không đúng cách. Những lưu ý khi sử dụng sữa đậu nành: a) Trước hoặc sau khi uống sữa đậu nành 1 giờ không nên ăn cam, quýt. b) Không nên uống sữa đậu nành khi đói, tốt nhất là sau bữa sáng 1-2 giờ. Hãy giải thích tại sao lại có những lưu ý như vậy. Giải thích: Trước khi uống sữa đậu nành 1 giờ không nên ăn cam, quýt vì axit và vitamin trong cam, quýt tác dụng lên protein trong sữa đậu nành kết thành khối ở ruột non làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá gây đầy bụng, đau bụng. Ví dụ 2: a) Tại sao các ion kim loại nặng như Pb2+, Hg2+ lại ảnh hưởng đến sức khoẻ con người? b) Khi làm việc với các hoá chất chứa kim loại nặng, người ta thường uống sữa? Giải thích: a) Protit giữ nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể. Các ion kim loại nặng làm kết tủa và làm biến tính protit làm mất chức năng của chúng nên gây rối loạn các hoạt động trong cơ thể. b) Protit trong sữa giúp kết tủa các kim loại nặng ngay ở bộ máy tiêu hoá, ngăn cản chúng thâm nhập vào các cơ quan khác. Áp dụng : Sữa đậu nàng rất tốt cho cơ thể nên được sử dụng rộng dãi. Chính vì thể giáo viên phải giúp các em biết sử dụng tốt nhất nguồn dinh dưỡng trong sữa đậu nành mà không phản tác dụng. Vấn đề này giáo viên sẽ đặt ra vào phần củng cố. Bài 14: VẬT LIỆU POLIME Ví dụ : a) Vì sao không ngâm lâu quần áo bằng len trong xà phòng? b) Vì sao đồ nhựa dùng lâu ngày bị biến màu và trở nên giòn? Giải thích: a) Len (từ lông thú) thuộc loại polipeptit. Dung dịch xà phòng có môi trường kiềm sẽ xúc tác cho phản ứng thuỷ phân liên kết peptit (-CONH-) làm đứt chuỗi polipeptit, làm cho sợi len mau hỏng. b) Dưới tác dụng của oxi không khí, của hơi ẩm, của ánh sáng và nhiệt, polime và các phụ gia có trong đồ nhựa có thể tham gia các phản ứng ở nhóm chức của nó. Kết quả là: Mạch polime bị phân cắt hoặc vẫn giữ được mạch nhưng đều làm thay đổi cấu tạo của chúng dẫn tới làm thay đổi màu sắc và tính chất. Hiện tượng đó gọi là sự lão hoá polime. Áp dụng : việc ngâm quần áo bằng len trong xà phòng làm quần áo nhanh hỏng không phải ai cũng biết điều này. Với câu hỏi thực tế này sẽ làm cho các em biết cách gìn giữ quần áo với chất liệu bằng len được tốt hơn. Câu hỏi này giáo viên có thể đặt khi học xong phần tơ. Bài 18: TÍNH CHẤT CỦA KIM LOẠI - DÃY ĐIỆN HÓA KIM LOẠI Ví dụ 1 : Tại sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà. Giải thích: Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 9,1). Do đó, nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng. Áp dụng : Giải quyết những thắc mắc cho nhiểu em học sinh. Giáo viên có thể đặt ra khi củng cố bài học. Bài 20: ĂN MÒN KIM LOẠI Ví dụ : Giải thích tại sao các cơ sở đóng tàu thường gắn một miếng kim loại bằng Zn ở phía sau đuôi tàu ? Giải thích: Thân tàu biển được chế tạo bằng gang, thép. Gang thép là hợp kim của sắt, cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên biển thân tàu tiếp xúc thường xuyên với nước biển và dung dịch chất điện ly nên sắt bị ăn mòn và bị hư hỏng. Để bảo vệ thân tàu thường áp dụng biện pháp là sơn để ngăn không cho thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển. Nhưng ở phía đuôi tàu do tác động của chân vịt nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ. Do đó phải gắn tấm kẽm vào đuôi tàu. Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn điện hóa, kẽm là kim loại hoạt động sẽ bị ăn mòn, lúc này sắt được bảo vệ. Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kỳ. Việc này đỡ tốn kém hơn nhiều việc sủa chữa thân tàu. Áp dụng : Sự ăn mòn kim loại đặc biệt là ăn mòn điện hóa, hằng năm đã gây tổn thất nghiệm trọng cho nền kinh tế quốc dân. Con người luôn cố gắng tìm ra những biện pháp chống ăn mòn kim loại. Phương pháp điện hóa ( dùng Zn) để bảo vệ vỏ tàu biển như trên rất hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi. Giáo viên có thể nêu vấn đề sau khi học xong bài “ ĂN MÒN KIM LOẠI ” ..để cho học sinh giải thích nhằm giúp các em biết cách vận dụng kiến thức đã học giải thích các hiện tượng trong cuộc sống. Bài 25: KIM LOẠI KIỀM VÀ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM LOẠI KIỀM Ví dụ 1: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày ? Giải thích: Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng : NaHCO3 + HCl ® NaCl + CO2 + H2O Áp dụng : Nhu cầu ngày càng tăng cao của con người kéo theo nhu cầu ăn uống ngày càng đa dạng, phong phú. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm tổn thương dạ dầy. Một trong những giải pháp làm giảm tình trạng đau dạ dầy chính là sủ dụng natrihiddrocacbonat (NaHCO3 )còn có tên là thuốc muối hoặc natribicacbonat có bán ngoài hiệu thuốc tây y giá thành lại rất rẻ. Giáo viên sẽ đưa vấn đề này khi dạy phần natri hiđrocacbonat ở bài “ Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm”. Ví dụ
Tài liệu đính kèm:
- long_ghep_cac_hien_tuong_thuc_tien_vao_mot_so_bai_day_hoa_ho.doc