Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức các hoạt động tự học của học sinh qua chủ đề este – lipit

Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức các hoạt động tự học của học sinh qua chủ đề este – lipit

Trong quá trình thực hiện giải pháp và kế hoạch giải quyết vấn đề, học sinh diễn đạt, trao đổi với người khác trong nhóm về kết quả thu được, qua đó có thể chỉnh lý, hoàn thiện tiếp. Trường hợp học sinh cần phải hình thành kiến thức mới nhằm giải quyết vấn đề, giáo viên sẽ giúp học sinh xây dựng kiến thức mới của bản thân trên cơ sở đối chiếu kiến thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết mới; kết nối/sắp xếp kiến thức cũ và kiến thức mới dựa trên việc phát biểu, viết ra các kết luận/ khái niệm/công thức mới… Trong quá trình đó, học sinh cần phải học lí thuyết hoặc/và thiết kế phương án thực nghiệm, tiến hành thực nghiệm, thu lượm các dữ liệu cần thiết và xem xét, rút ra kết luận. Kiến thức, kĩ năng mới được hình thành giúp cho việc giải quyết được câu hỏi/vấn đề đặt ra.

Trong quá trình hoạt động giải quyết vấn đề, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, hành động của học sinh được định hướng phù hợp với tiến trình nhận thức khoa học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng mới học để giải quyết các tình huống có liên quan trong học tập và cuộc sống hằng ngày; tiếp tục tìm tòi và mở rộng kiến thức thông qua các nguồn tư liệu, học liệu, khác nhau; tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau. Qua quá trình dạy học, cùng với sự phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh, sự định hướng của giáo viên tiệm cận dần đến định hướng tìm tòi sáng tạo, nghĩa là giáo viên chỉ đưa ra cho học sinh những gợi ý sao cho học sinh có thể tự tìm tòi, huy động hoặc xây dựng những kiến thức và cách thức hoạt động thích hợp để giải quyết nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Nghĩa là dần dần bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự xác định hành động thích hợp trong những tình huống không phải là quen thuộc đối với học sinh.

doc 57 trang Mai Loan 03/02/2025 700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức các hoạt động tự học của học sinh qua chủ đề este – lipit", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BÁO CÁO KẾT QUẢ 
 NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
 Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (gọi tắt là Chương trình tổng thể) đã 
được chuẩn bị và triển khai từ rất sớm, ngay sau Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011), 
nhất là từ khi có Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8 Ban 
chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào 
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Chương trình giáo dục phổ thông tổng 
thể xây dựng mục tiêu của từng cấp học cụ thể trong đó mục tiêu cấp trung học phổ 
thông: Nhằm phát triển nhân cách công dân trên cơ sở phát triển hài hoà về thể chất và 
tinh thần; duy trì, tăng cường và định hình các phẩm chất và năng lực đã hình thành ở 
cấp trung học cơ sở; có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản được định hướng theo lĩnh 
vực nghề nghiệp phù hợp với năng khiếu và sở thích; phát triển năng lực cá nhân để lựa 
chọn hướng phát triển, tiếp tục học lên hoặc bước vào cuộc sống lao động.
 Như vậy, chương trình giáo dục cấp trung học phổ thông có điểm mới quan trọng 
là: “Giúp học sinh hình thành phẩm chất và năng lực của người lao động, nhân cách 
công dân, ý thức quyền và nghĩa vụ đối với Tổ quốc; có khả năng tự học và ý thức học 
tập suốt đời, có những hiểu biết và khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với 
năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân”. 
 Ngày 1 tháng 8 năm 2018 sở giáo dục đào tạo Vĩnh Phúc đã tập huấn bồi dưỡng 
thường xuyên tới toàn bộ giáo viên trong tỉnh các nội dung: dạy học hóa học theo định 
hướng tiếp cận năng lực và tổ chức các hoạt động tự học của học sinh ở trường trung 
học phổ thông. Là một giáo viên giảng dạy tại trường trung học phổ thông tôi thấy chủ 
đề este - lipit thuộc chương trình hoá học lớp 12 là một chủ đề quan trọng của đề thi 
trung học phổ thông quốc gia, có nhiều câu hỏi ở nhiều mức độ khác nhau từ dễ đến 
khó, liên quan đến nhiều hợp chất khác như axit cacboxylic, ancol, anđehit đồng thời 
tính liên hệ thực tiễn rất phong phú. Để hướng dẫn học sinh tổng hợp kiến thức và phân 
dạng phương pháp giải bài tập este – lipit trong tỉnh Vĩnh Phúc đã nhiều thầy cô giáo 
đầu tư công sức tham gia viết chuyên đề rất hay, công phu sáng tạo và đã báo cáo cấp 
tỉnh như: 
 Tên tác giả Đơn vị
 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TỔ CHỨC CÁC 
 HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
I. Một số vấn đề chung về tổ chức hoạt động học của học sinh
 Thực hiện Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về 
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc 
tế, giáo dục phổ thông trong phạm vi cả nước đang thực hiện đổi mới đồng bộ về mục 
tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị và đánh giá chất lượng giáo dục: 
từ mục tiêu chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất của học 
sinh; từ nội dung nặng tính hàn lâm sang nội dung có tính thực tiễn cao; từ phương pháp 
truyền thụ một chiều sang phương pháp dạy học tích cực; từ hình thức dạy học trên lớp 
là chủ yếu sang kết hợp đa dạng các hình thức dạy học trong và ngoài lớp học, trong và 
ngoài nhà trường, trực tiếp và qua mạng; từ hình thức đánh giá tổng kết là chủ yếu sang 
coi trọng đánh giá trên lớp và đánh giá quá trình; từ giáo viên đánh giá học sinh là chủ 
yếu sang tăng cường việc tự đáng giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh. Như vậy, khác 
với dạy học định hướng nội dung, dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh 
là tổ chức cho học sinh hoạt động học. Trong quá trình dạy học, học sinh là chủ thể 
nhận thức, giáo viên có vai trò tổ chức, kiểm tra, hỗ trợ hoạt động học tập của học sinh 
một cách hợp lý sao cho học sinh tự chủ chiếm lĩnh, xây dựng tri thức. Quá trình dạy 
học là quá trình hoạt động của giáo viên và của học sinh trong sự tương tác thống nhất 
giữa giáo viên, học sinh và tư liệu hoạt động dạy học.
 Đặc trưng của việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và học sinh là: 
 1. Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học sinh tự 
khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp 
đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các 
hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo 
kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn.
 2. Chú trọng rèn luyện cho học sinh những tri thức phương pháp để họ biết cách đọc 
sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, biết 
cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,... Các tri thức phương pháp thường là 
những quy tắc, quy trình, phương thức hành động, tuy nhiên cũng cần coi trọng cả các 
phương pháp có tính chất dự đoán, giả định (ví dụ: các bước cân bằng phương trình phản 
 3 Tiến trình dạy học phải thể hiện chuỗi hoạt động học của học sinh phù hợp với 
phương pháp dạy học tích cực được vận dụng. Tùy theo đặc thù bộ môn và nội dung dạy 
học của chủ đề, giáo viên có thể lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau. Tuy 
nhiên, các phương pháp dạy học tích cực nói chung đều dựa trên quan điểm dạy học giải 
quyết vấn đề có tiến trình sư phạm tương tự nhau: xuất phát từ một sự kiện/hiện 
tượng/tình huống/nhiệm vụ làm xuất hiện vấn đề cần giải quyết - lựa chọn giải pháp/xây 
dựng kế hoạch giải quyết vấn đề - thực hiện giải pháp/kế hoạch để giải quyết vấn đề - 
đánh giá kết quả giải quyết vấn đề. Vì vậy, nhìn chung tiến trình tổ chức hoạt động học 
của học sinh trong mỗi bài học/chủ đề như sau:
 1. Đề xuất vấn đề
 Để đề xuất vấn đề, giáo viên giao cho học sinh một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề. 
Nhiệm vụ giao cho học sinh có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: 
giải thích một sự kiện/hiện tượng trong tự nhiên hay xã hội; giải quyết một tình huống 
trong học tập hay trong thực tiễn; tiến hành một thí nghiệm mở đầu... Dưới sự hướng 
dẫn của giáo viên, học sinh quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện 
thực hiện nhiệm vụ. Từ nhiệm vụ cần giải quyết, học sinh huy động kiến thức, kĩ năng 
đã biết và nảy sinh nhu cầu về kiến thức, kĩ năng còn chưa biết, nhưng hi vọng có 
thể tìm tòi, xây dựng được; diễn đạt nhu cầu đó thành câu hỏi. Lúc này vấn đề đối 
với học sinh xuất hiện, dưới sự hướng dẫn của giáo viên vấn đề đó được chính thức diễn 
đạt.
 Nhiệm vụ giao cho học sinh cần đảm bảo rằng học sinh không thể giải quyết trọn 
vẹn với kiến thức, kĩ năng đã có mà cần phải học thêm kiến thức mới để vận dụng vào 
quá trình giải quyết vấn đề.
 2. Giải pháp và kế hoạch giải quyết vấn đề
 Sau khi đã phát biểu vấn đề, học sinh độc lập hoạt động, xoay trở để vượt qua khó 
khăn, tìm các giải pháp để giải quyết vấn đề. Trong quá trình đó, khi cần phải có sự định 
hướng của giáo viên để học sinh có thể đưa ra các giải pháp theo suy nghĩ của học sinh. 
Thông qua trao đổi, thảo luận dưới sự định hướng của giáo viên, học sinh xác định được 
các giải pháp khả thi, bao gồm cả việc học kiến thức mới phục vụ cho việc giải quyết 
vấn đề đặt ra, đồng thời xây dựng kế hoạch hành động nhằm giải quyết vấn đề đó.
 3. Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề
 5 Tiến trình tổ chức hoạt động học của học sinh trong mỗi bài học cần được thiết kế 
thành các hoạt động học theo tiến trình sư phạm của các phương pháp dạy học tích cực 
như: dạy học giải quyết vấn đề, dạy học tìm tòi nghiên cứu, phương pháp "Bàn tay nặn 
bột" và các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn Tuy có những điểm khác nhau, 
nhưng tiến trình sư phạm của các phương pháp dạy học tích cực đều tuân theo con 
đường nhận thức chung. Vì vậy, các hoạt động của học sinh trong mỗi bài học có thể 
được thiết kế như sau: Tình huống xuất phát, Hình thành kiến thức, Luyện tập, Vận 
dụng, Tìm tòi mở rộng.
1. Tình huống xuất phát
 Mục đích của hoạt động này là tạo tâm thế học tập học sinh, giúp học sinh ý thức 
được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài mới. Giáo viên sẽ tạo tình huống học tập dựa 
trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân học sinh có liên quan đến vấn đề 
xuất hiện trong bài học; làm bộc lộ "cái" học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học 
sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động 
này. Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp 
tìm hiểu, học tập. Vì vậy, các câu hỏi/nhiệm vụ trong hoạt động khởi động là những câu 
hỏi/vấn đề mở, không nhất thiết HS phải có câu trả lời hoàn chỉnh. Kết thúc hoạt động 
này, giáo viên không chốt về nội dung kiến thức mà chỉ giúp học sinh phát biểu được vấn 
đề để học sinhchuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm bổ sung những kiến thức, kĩ 
năng mới, qua đó tiếp tục hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề.
2. Hình thành kiến thức mới
 Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng 
mới và đưa các kiến thức, kỹ năng mới vào hệ thống kiến thức, kỹ năng của bản thân. 
Giáo viên giúp học sinh xây dựng được những kiến thức mới thông qua các hoạt động 
khác nhau như: nghiên cứu tài liệu; tiến hành thí nghiệm, thực hành; hoạt động trải 
nghiệm sáng tạo... Kết thúc hoạt động này, trên cơ sở kết quả hoạt động học của học 
sinh thể hiện ở các sản phẩm học tập mà học sinh hoàn thành, giáo viên cần ”chốt” 
kiến thức mới để học sinh chính thức ghi nhận và vận dụng.
3. Luyện tập
 Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ 
năng vừa lĩnh hội được. Trong hoạt động này, học sinh được yêu cầu áp dụng trực tiếp 
kiến thức vào giải quyết các câu hỏi/bài tập/tình huống/vấn đề trong học tập. Kết thúc 
 7 nội dung học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; giáo viên cần khuyến khích 
cho học sinh trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư 
phạm nảy sinh một cách hợp lí.
 d. Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: giáo viên tổ chức cho học sinh 
trình bày, thảo luận về kết quả thực hiện nhiệm vụ; nhận xét về quá trình thực hiện 
nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ 
và những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa các kiến thức mà học sinh đã học 
được thông qua hoạt động.
2. Ý nghĩa của mỗi loại hình hoạt động học của học sinh
 a. Hoạt động cá nhân là hoạt động yêu cầu học sinh thực hiện các bài tập/nhiệm 
vụ một cách độc lập. Loại hoạt động này nhằm tăng cường khả năng làm việc độc lập 
của học sinh. Nó diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là với các bài tập/nhiệm vụ có yêu cầu 
khám phá, sáng tạo hoặc rèn luyện đặc thù. Giáo viên cần đặc biệt coi trọng hoạt động 
cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của học sinh sẽ không đạt tới mức độ sâu sắc và chắc 
chắn cần thiết, cũng như các kĩ năng sẽ không được rèn luyện một cách tập trung.
 b. Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm là những hoạt động nhằm giúp học sinh 
phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. Thông thường, 
hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp các bài tập/ nhiệm 
vụ cần sự chia sẻ, hợp tác trong nhóm nhỏ gồm 2 em. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với 
nhau một nội dung nào đó, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo...; còn hình thức hoạt 
động nhóm (từ 3 em trở lên) được sử dụng trong trường hợp tương tự, nhưng nghiêng 
về sự hợp tác, thảo luận với số lượng thành viên nhiều hơn.
 c. Hoạt động chung cả lớp là hình thức hoạt động phù hợp với số đông học sinh. 
Đây là hình thức nhằm tăng cường tính cộng đồng, giáo dục tinh thần đoàn kết, sự chia 
sẻ, tinh thần chung sống hài hoà. Hoạt động chung cả lớp thường được vận dụng trong 
các tình huống sau: nghe giáo viên hướng dẫn chung; nghe giáo viên nhắc nhở, tổng kết, 
rút kinh nghiệm; học sinh luyện tập trình bày miệng trước tập thể lớp Khi tổ chức 
hoạt động chung cả lớp, giáo viên tránh biến giờ học thành giờ nghe thuyết giảng hoặc 
vấn đáp vì như vậy sẽ làm giảm hiệu quả và sai mục đích của hình thức hoạt động này.
 d. Hoạt động với cộng đồng là hình thức hoạt động của học sinh trong mối tương 
tác với xã hội. Hoạt động với cộng đồng bao gồm nhiều hình thức, từ đơn giản như: nói 
 9

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_cac_hoat_dong_tu_hoc_cua_hoc_s.doc