Hình thành kĩ năng sử dụng tư liệu lịch sử cho học sinh trong bài 25 "Phong trào Tây Sơn" Lịch sử lớp 7 - THCS

Hình thành kĩ năng sử dụng tư liệu lịch sử cho học sinh trong bài 25 "Phong trào Tây Sơn" Lịch sử lớp 7 - THCS

 Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đưa đất nước Việt Nam ngày càng hoà nhập với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới đang quốc tế hóa cao độ. Để trở thành một quốc gia giàu mạnh và phồn vinh, có rất nhiều nhiệm vụ đặt ra trong các lĩnh vực, trong đó đặc biệt quan tâm và được đánh giá là quốc sách đó là nhiệm vụ đặt ra trong quá trình giáo dục. Bởi mục đích đặt ra của nền giáo dục Việt Nam là phát triển nhân cách cho học sinh, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, lao động. Ở tất các bậc học hết sức coi trọng giáo dục tư tưởng nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo, năng lực thực hành. Hơn nữa hiện nay trình độ khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, đòi hỏi con người phải có trình độ thật sự, có khả năng tiếp thu nhanh chóng nền văn hoá của nhân loại, nhanh chóng nắm bắt những đổi mới để áp dụng vào thực tiễn. Bởi công tác giảng dạy và học tập đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với thế giới ngày nay. Để đảm bảo chất lượng trong việc đào tạo con người đòi hỏi nhà trường phải có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn thật sự, đồng thời có kiến thức đối với các môn học có liên quan, để đào tạo ra những thế hệ tương lai có một trình độ cập nhật và có nhân cách phát triển toàn diện.

 Trước yêu cầu dạy học, muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả thì phải giáo dục cho các em thái độ, động cơ học tập đúng đắn. Để giúp các em nhận thức được rằng học tập là nhiệm vụ của mình, để phục vụ cho mình và chỉ có học tập mới tạo nên cho mình nền tảng kiến thức để hiểu được thế giới vĩ mô với bao điều bí ẩn, từ đó đi vào khám phá cái hay, cái đẹp của nó. Qua đó giúp các em ý thức say mê học tập các bộ môn khác có liên quan, để đạt kết quả cao và tạo khí thế cho các em tham gia vào các hoạt động khác.

 

doc 14 trang thuychi01 10517
Bạn đang xem tài liệu "Hình thành kĩ năng sử dụng tư liệu lịch sử cho học sinh trong bài 25 "Phong trào Tây Sơn" Lịch sử lớp 7 - THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài: 
 	 Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đưa đất nước Việt Nam ngày càng hoà nhập với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới đang quốc tế hóa cao độ. Để trở thành một quốc gia giàu mạnh và phồn vinh, có rất nhiều nhiệm vụ đặt ra trong các lĩnh vực, trong đó đặc biệt quan tâm và được đánh giá là quốc sách đó là nhiệm vụ đặt ra trong quá trình giáo dục. Bởi mục đích đặt ra của nền giáo dục Việt Nam là phát triển nhân cách cho học sinh, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, lao động.... Ở tất các bậc học hết sức coi trọng giáo dục tư tưởng nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo, năng lực thực hành. Hơn nữa hiện nay trình độ khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, đòi hỏi con người phải có trình độ thật sự, có khả năng tiếp thu nhanh chóng nền văn hoá của nhân loại, nhanh chóng nắm bắt những đổi mới để áp dụng vào thực tiễn. Bởi công tác giảng dạy và học tập đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với thế giới ngày nay. Để đảm bảo chất lượng trong việc đào tạo con người đòi hỏi nhà trường phải có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn thật sự, đồng thời có kiến thức đối với các môn học có liên quan, để đào tạo ra những thế hệ tương lai có một trình độ cập nhật và có nhân cách phát triển toàn diện.
 	Trước yêu cầu dạy học, muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả thì phải giáo dục cho các em thái độ, động cơ học tập đúng đắn. Để giúp các em nhận thức được rằng học tập là nhiệm vụ của mình, để phục vụ cho mình và chỉ có học tập mới tạo nên cho mình nền tảng kiến thức để hiểu được thế giới vĩ mô với bao điều bí ẩn, từ đó đi vào khám phá cái hay, cái đẹp của nó. Qua đó giúp các em ý thức say mê học tập các bộ môn khác có liên quan, để đạt kết quả cao và tạo khí thế cho các em tham gia vào các hoạt động khác.
 	Sinh thời, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
 	Câu nói giản dị của Bác thật thấm thía và sâu sắc, bởi đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình, đó cũng chính là đạo lí: “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Lịch sử và tương lai được ví như đôi quang gánh, và cần phải giữ cho đôi quang ghánh ấy được thăng bằng không được thiên về bên nào. Bởi nếu ta nghiêng về phía sau thì ta sẽ trở thành người lạc hậu, còn nếu ta thiên về phía trước thì bánh xe lịch sử sẽ đè bẹp chúng ta. Từ những suy nghĩ đó, ta nhận thấy môn Lịch sử cũng là một trong những môn học có vai trò quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đó cũng chính là điều mà Đảng và Nhà nước ta đang quan tâm. Trong những năm gần đây, qua đài báo và tình hình thực tế ở các nhà trường, tôi nhận thấy hầu như các em học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Lịch sử, các em còn coi nhẹ môn học này, vì cho đây chỉ là môn phụ và các em rất “ngán ngẩm” khi phải học và nhớ các sự kiện lịch sử, những bài học kinh nghiệm, nhất là khi các em càng lên lớp trên (THCS, THPT). Trước yêu cầu đó, xã hội đòi hỏi ngành giáo dục chúng ta cần quan tâm, thay đổi nhận thức, thay đổi phương pháp dạy học... một cách sinh động, hấp dẫn hơn.
 	Nhận thức được điều này, bản thân tôi luôn suy nghĩ tìm tòi và rút ra được một số phương pháp áp dụng vào giảng dạy bộ môn Lịch sử có khả thi. Qua thực tiễn kiểm nghiệm của bản thân, tôi mạnh dạn nghiên cứu nội dung đề tài là: “Hình thành kĩ năng sử dụng tư liệu lịch sử cho học sinh trong bài 25 "Phong trào Tây Sơn" Lịch sử lớp 7- THCS”. Hi vọng rằng từ những giải pháp nhỏ này sẽ giúp học sinh học tốt hơn môn Lịch sử, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu: 
Mục tiêu giáo dục là đào tạo ra đội ngũ con người phát triển toàn diện, chính vì lẽ đó mà tôi phải tìm hiểu: Hình thành kĩ năng làm việc với tư liệu lịch sử cho học sinh lớp 7 THCS, đặc biệt qua bài 25: Phong trào Tây Sơn. Trên cơ sở thực tế giảng dạy, tìm hiểu, nghiên cứu, đề ra một số phương pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học tập bộ môn Lịch sử cho các em, phát huy tính tự chủ, khả năng tự học của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu, lược đồ, bản đồ, sưu tầm tranh ảnh, hiện vật...gây hứng thú cho tiết dạy học lịch sử.
 Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập lịch sử; Khai thác kênh hình, sách chuẩn kiến thức kĩ năng, sách kiểm tra thường xuyên và định kì, các tài liệu tham khảo, các tư liệu lịch sử trên mạng Internet. 
	Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các chỉ thị, Nghị quyết của Ngành và các sách báo có liên quan về vấn đề Lịch sử và phương pháp giảng dạy sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học môn Lịch sử lớp 7.
- Điều tra viết: Tôi tiến hành nghiên cứu và khảo sát tại lớp 7A và lớp 7B trường THCS Hoằng Lưu. Tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên tổng số các học sinh được thăm dò để so sánh sự khác nhau giữa ý kiến của các nhóm học sinh khảo sát.
- Thử nghiệm một số biện pháp được đề xuất.
2.NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận :
2.1.1. Tư liệu lịch sử và vai trò của tư liệu lịch sử
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm tư liệu lịch sử. Song ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy phản ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đó của con người.
	Tư liệu lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học lịch sử nói chung và đối với việc học tập lịch sử nói riêng.
Khoa học lịch sử tồn tại được trên cơ sở các sự kiện lịch sử mà các sự kiện lịch sử lại là những tế bào cấu thành lịch sử mà các tế bào đó là từ các tư liệu lịch sử. Do đó không có tư liệu lịch sử thì không có khoa học tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử tồn tại cho khoa học lịch sử và ngược lại khoa học lịch sử không thể thiếu nó.
Sự kiện lịch sử xảy ra trong quá khứ và không lặp lại nếu có sự lặp lại cũng chỉ lặp lại ở một trình độ khác, mức độ khác, thời gian khác và không gian khác. Vì vậy các sự kiện lịch sử chỉ còn lại trong các tư liệu lịch sử (không thể tìm thấy trong tự nhiên), các ngành khoa học tự nhiên thì khác có thể dựng lại thí nghiệm lại nhưng khoa học lịch sử thì không, nó không thể dựng lại mà chỉ có một con đường là tư liệu lịch sử thực nghiệm chỉ nhằm giúp ta hình dung lại những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ.
2.1.2. Các loại tư liệu lịch sử.
	Khoa học lịch sử có nguồn tư liệu hết sức phong phú và đa dạng. Tùy theo nội dung phản ánh mà người ta chia tư liệu lịch sử ra thành các nhóm: tư liệu vật chất, tư liệu truyền miệng, tư liệu tranh ảnh, phim ảnh...Nhưng cũng có thể chia thành hai loại chính : tư liệu trực tiếp và tư liệu gián tiếp.
Với học sinh cấp THCS các em chỉ cần hiểu được về cơ bản có ba nguồn tư liệu lịch sử chính. Những câu chuyện, những lời mô tả được truyền từ đời này qua đời khác ở rất nhiều dạng khác nhau, đó là tư liệu truyền miệng. Những di tích, đồ vật của người xưa còn giữ được trong lòng đất hay trên mặt đất, đó là tư liệu hiện vật. Những bản ghi, sách vở chép tay được in, khắc bằng chữ viết, gọi chung là tư liệu chữ viết Nguồn tư liệu là gốc giúp chúng ta hiểu biết và dựng lại lịch sử. [1].
Vì vậy, để học sinh học tập tốt môn Lịch sử thì việc hình thành cho các em kĩ năng tìm kiếm, khai thác các nguồn tư liệu lịch sử để dựng lại sự kiện lịch sử là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Đặc biệt qua đó, giúp hình thành cho học sinh kiến thức lịch sử đúng đắn, khoa học nhất, qua đó hình thành tình yêu với môn học lịch sử, tình yêu với quê hương đất nước, lòng biết ơn tổ tiên và niềm tự hào dân tộc. Rồi từ đó thói quen, kĩ năng tư duy, kĩ năng quan sát , phân tích, đánh giá, nhận xét, khái quát, so sánh ....làm việc với các loại tư liệu lịch sử được hình thành và dần vững vàng, giúp các em học tốt hơn môn lịch sử cũng như vận dụng vào các môn học khác và cả trong cuộc sống.
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, hình thành kĩ năng làm việc với tư liệu lịch sử góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những sự kiện, kiến thức lịch sử. Nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực với quá khứ, khách quan với đời sống hiện tại.
2.2. Thực trạng dạy học môn lịch sử ở Trường THCS nói chung và trường THCS Hoằng Lưu nói riêng .
2.2.1. Ưu điểm
* Về phía giáo viên: Đại đa số giáo viên đều cố gắng tìm hiểu đưa ra những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học: Nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trực quan, lập niên biểu, vấn đáp, Thông qua trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử; giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận nhóm, so sánh, giải thích một cách tích cực. Giúp học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu hơn về bản chất, vai trò và ý nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các nguồn tư liệu lịch sử với các đồ dùng và phương tiện dạy học như: tư liệu, thơ văn, tranh ảnh, bản đồ, lược đồ SGK, hiện vật, phim đèn chiếu,từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử.
* Về phía học sinh: Đa số học sinh chú ý nghe giảng, tập trung tìm hiểu, suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra theo sự chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời câu hỏi ở cuối mục trong bài, quan sát tranh ảnh, tập vẽ và trình bày diễn biến trên lược đồ cho nên khi học các em luôn chú ý để hiểu nội dung bài dạy, tích cực thảo luận nhóm, đưa ra các tình huống có vấn đề và tìm cách giải quyết. Trong quá trình lĩnh hội kiến thức học sinh đang cố gắng học hỏi lẫn nhau để nắm bắt kiến thức cơ bản thông qua hoạt động thảo luận, vấn đáp, đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ, tranh ảnh,các em đã mạnh dạn trình bày diễn biến trên lược đồ, lập niên biểu lên bảng, trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.
2.2.2. Nhược điểm:
	* Về phía giáo viên: Thiết bị môn lịch sử (bản đồ, hiện vật,) còn thiếu, các tranh ảnh, lược đồ sách giáo khoa thì một số ít giáo viên chỉ cho học sinh khai thác sơ sài hoặc quan sát qua loa. Cũng có khi giáo viên yêu cầu học sinh vẽ lược đồ mà không hướng dẫn kĩ càng, học sinh không biết cách vẽ nên tiết dạy không có lược đồ, 
	* Về phía học sinh: Học sinh lớp 7 mới bắt đầu được học lịch sử với tư cách là một bộ môn khoa học từ lớp 6 nên các em gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thu tri thức lịch sử vừa toàn diện vừa khó nhớ. Khác hẳn nội dung lịch sử ở cấp tiểu học vừa ngắn gọn lại vừa dễ nhớ. Việc hình thành cho học sinh kĩ năng làm việc với tài liệu lịch sử trong sách giáo khoa đã khó khăn chứ chưa nói các loại tư liệu lịch sử khác.	
	Học sinh thường có thói quen trả lời câu hỏi do giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc nguyên xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi, học sinh cá biệt còn lười học thậm chí không ghi bài, không chuẩn bị bài mới ở nhà, trên lớp không tập trung suy nghĩ cho nên việc ghi nhận các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. Bởi vậy học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, so sánh, giải thích,thì học sinh trả lời còn lúng túng hoặc mang tính chất chung chung, không rõ ràng.
	Đa số học sinh là con em gia đình thuần nông, chưa có máy tính, điện thoại thông minh kết nối Internet nên việc tìm kiếm tư liệu, thông tin ngoài sách giáo khoa còn rất hạn chế. 
	* Số liệu điều tra cụ thể: Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh đồng thời tôi tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra hiện thực thông qua sử dụng đồ dùng trực quan, thảo luận, hỏi đáp để phát triển tư duy học sinh ở trên lớp; kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phát, kiểm tra 1 tiết ... Đầu năm học 2016 – 2017 tôi tiến hành điều tra ở 2 lớp 7 môn Lịch sử, kết quả khảo sát như sau:
Lớp (SS)
Giỏi (TL)
Khá (TL)
TB (TL)
Yếu (TL)
Kém(TL)
7A (28)
3(10,7)
12(42,9)
8(28,6)
5(17,8)
0
7B (28)
0
3(10,7)
14(46,4)
10(39,3)
1(3,6)
2.3. Các giải pháp hình thành kĩ năng sử dụng tư liệu lịch sử cho học sinh khi dạy học Bài 25 "Phong trào Tây Sơn" SGk Lịch sử lớp 7 THCS.
2.3.1. Sưu tầm, tập hợp tư liệu.
	Có nhiều nguồn tư liệu để phục vụ cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh, song trong phạm vi của sáng kiến, căn cứ vào đặc thù môn học và đối tượng học sinh, tôi xin đưa ra các biện pháp sưu tầm, tập hợp tư liệu lịch sử sau:
	- Đối với giáo viên: Đây là công việc thường xuyên, liên tục của tất cả các giáo viên từ trước tới nay nếu muốn nâng cao chất lượng giảng dạy môn lịch sử. Trước đây việc tìm kiếm tư liệu ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên là việc làm khá khó khăn.Tuy nhiên hiện nay, thời đại công nghệ thông tin đã giúp ích rất nhiều cho giáo viên nhờ kết nối mạng Internet, giáo viên chỉ cần tìm kiếm thông tin mình cần trong các chương trình giáo dục, các kho tư liệu quý trên các trang mạng có uy tín. Tuy nhiên giáo viên cần biết chọn lọc tư liệu, bởi tư liệu trên mạng thường có nhiều thông tin trái chiều, nên giáo viên phải thật vững vàng về tri thức và lập trường chính thống để xử lí thông tin. Ngoài ra cùng không quá tham sử dụng quá nhiều tư liệu ngoài sách mà làm cho bài học thêm quá nặng nề, loãng trọng tâm kiến thức của bài học.
	- Đối với học sinh: Đây là biện pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tính chủ động, tích cực học tập của học sinh. Giúp các em tự tin hơn trong học tập, chủ động tìm tòi, suy nghĩ; trở thành trung tâm của việc dạy-học; hứng thú hơn trong học tập. Để các em có được kiến thức lịch sử sinh động, dễ nhớ nhờ bản thân tự tìm tòi, chắt lọc được. Từ đó hình thành cho các em kĩ năng tư duy độc lập, thái độ học tập tập trung, chủ động . Tuy nhiên, để việc sưu tầm của học sinh đạt kết quả như mong muốn giáo viên cần phải nắm rõ đối tượng học sinh và phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, phù hợp với khả năng và điều kiện học tập của các em. 
	Ví dụ: Chuẩn bị cho tiết 1 phần I - Bài 25 : Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà các nội dung sau: Câu hỏi 1: Sự mục nát của chính quyền họ Nguyễn nửa cuối thế kỉ XVIII được thể hiện như thế nào? Lấy dẫn chứng? Câu hỏi 2: Tìm tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của ba anh em nhà Tây Sơn, đặc biệt là về Quang Trung - Nguyễn Huệ qua thơ văn của Ngô Thì Nhậm hoặc tư liệu hình ảnh mà em biết ? Như vậy, với câu hỏi 1 học sinh trung bình và chỉ cần đọc SGk cũng có thể khai thác tư liệu để chuẩn bị bài mới ở nhà. Còn câu hỏi số 2 học sinh khá giỏi và có khả năng sử dụng được mạng Internet để tra cứu tài liệu và tìm ra tư liệu phục vụ cho bài học một cách hiệu quả.
2.3.2. Các loại tư liệu lịch sử có thể sử dụng trong bài 25.
 	Từ thực tế dạy và học bộ môn lịch sử ở trường nói chung và trong bài 25 "Phong trào Tây Sơn" nói riêng, bản thân và học sinh đã khai thác và sử dụng nhiều nguồn tư liệu trong đó có các nguồn tư liệu chính như: tư liệu chữ viết, tư liệu truyền miệng, tư liệu hình ảnh, lược đồ (treo tường và lược đồ động nhờ phần mềm PowerPoint) ...
	Bài 25 “Phong trào Tây Sơn” SGK Lịch sử lớp 7 THCS gồm 4 tiết với 
4 phần.
	Phần I. Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn.
	Tư liệu chữ viết: 
	Để làm rõ tình hình thối nát của chính quyền và sự thống khổ của nhân dân Đàng Trong nửa cuối thế kỉ XVIII, học sinh có thể nêu dược những dẫn chứng từ nguồn tư liệu sẵn có trong SGK: Nhà bác học Lê Quý Đôn(thế kỉ XVIII) nhận xét: "Từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ...lấy sự phú quý phong lưu để kheo khoang lẫn nhau... Họ coi vàng bạc như cát, lúa gạo như bùn, hoang phí vô cùng". Trương Phúc Loan " Thu lợi 5 cửa nguồn, nhận của đút lút, vàng bạc, châu báu, gấm vóc chứa đầy nhà. Ruộng vườn, tôi tớ, trâu ngựa không biết bao nhiêu mà kể".[2]
	Sau đó giáo viên có thể bổ sung từ tài liệu trích trong "Phủ biên tạp lục" : "Hằng năm, quân lính phải nộp cho Loan 5 gánh dây mây để thay những dây xâu tiền cũ đã mục nát. Mỗi lần bị nước lụt, Loan đem vàng bạc bày lên chiếu mây để phơi nắng, sáng chói cả một góc sân. Hàng ngày Loan cho người ra chợ mua thực phẩm, vừa mua vừa cướp làm huyên náo cả chợ. Các tầng lớp nhân dân ở Đàng Trong vô cùng oán giận..." .[3]
	Hay để học sinh hiểu rõ về con người và sự nghiệp của 3 anh em nhà Tây Sơn, đặc biệt là Nguyễn Huệ thì ngoài phần tư liệu chữ viết trong SGk mà học sinh có thể khai thác được: "tổ tiên anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ vốn quê ở Nghệ An, bị chúa nguyễn bắt đưa vào Đàng trong khai khẩn đất hoang. Thủa nhỏ, ba anh em theo học ông giáo Hiến, một nho sĩ bất mãn với chế độ thối nát đương thời” [2]. Sau đó có thể cho học sinh khác bổ sung (nếu các em đã sưu tầm được), nếu không, giáo viên cần bổ sung thêm về Nguyễn Huệ : Ngô Thì Nhậm đã miêu tả vị anh hùng ấy là người “thông minh trời phú, thánh kính ngày tăng, lồng lộng cơ đồ rạng rỡ. Mênh mông vương đạo mở ra” [4]. Bên cạnh nhân cách lớn lao thì tài dùng người của Quang Trung cũng là điểm nhấn thu phục nhân tâm không chỉ Ngô Thì Nhậm mà còn bao người khác: "Dùng người rộng rãi, không phân mới cũ thân sơ. Khiến cho bọn lười biếng tầm thường cũng được thấy thanh minh thịnh sự”.[4] .
	Về hoạt động của nghĩa quân, giáo viên giới thiệu tư liệu do giáo sĩ phương Tây ghi lại: Giáo sĩ Diego de Jumila, trong thư đề ngày 15-2-1774, đã viết: Năm ngoái, khoảng đầu tháng tư, quân đội Đàng Trong (ý nói quân Tây Sơn) bắt đầu tuần hành tại các nơi...ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, lại có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của, trái lại họ muốn tỏ ra bình đẳng giữa người Đàng Trong. Họ vào nhà giàu, nếu biếu họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nếu chống cự thì họ cướp lấy những dồ quý giá nhất đem chia cho người nghèo, họ chỉ giữ lại gạo và đồ ăn. Người ta gọi họ là "giặc nhân đức"với người nghèo. ..họ tấn công và tước vũ khí viên quan do nhà vua sai vào thu thuế. Tất cả giấy tờ của viên quan này đều bị họ đem ra đốt ở nơi công cộng cùng với sổ sách về thuế khóa do nhà vua và quan lại đặt ra. Một giáo sĩ khác tên là E.Castuera cũng ghi: Họ tuần hành trong các làng, tuyên bố với dân chúng rằng họ không phải là cướp. Họ muốn thực hiện công lí trong xã hội và giải phóng nhân dân khỏi ách chuyên chế của vua, quan. Họ lấy của cải của quan lại và nhà giàu phân phát cho dân nghèo. Những làng mạc bị thuế má hà khắc đè nặng đã nhiêt liệt tuyên thệ hưởng ứng cuộc nổi dậy .[3] .
	Tư liệu hình ảnh:
Ba anh em: Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ
Tư liệu lược đồ
Phần II. Tây Sơn lật đổ chính quyền họ Nguyễn và đánh tan quân Xiêm.	
	Tư liệu chữ viết:
	Để nhấn mạnh chiến thắng của quân Tây Sơn , cũng cần khai thác đoạn nhận xét của sử thần nhà Nguyễn để làm nổi bật chiến công lẫy lừng của quân Tây Sơn, đập tan âm mưu xâm lược của phong kiến Xiêm : "Người Xiêm sau trận thua năm Giáp Thìn (đầu năm 1785 dương lịch), ngoài miệng tuy nói khoác, nhưng trong bụng thì sợ quân Tây Sơn như cọp " [2] 
XIÊM
CHÂN LẠP
Tư liệu lược đồ:
CHÚ THÍCH
Quân Trịnh
Quân Tây Sơn
Quân Nguyễn
CHÂN LẠP
	Lược đồ phạm vi kiểm soát của quân Tây Sơn 
Tây Sơn lật đổ chính quyền chúa Nguyễn. Chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút.
Phần IV. Tây Sơn đánh tan quân Thanh
	Tư liệu chữ viết: 
	Sách Hoàng Lê nhất thống chí viết: Sau khi tràn vào Thăng Long dễ dàng, giặc Thanh chủ quan, kiêu ngạo, cho quân lính mặc sức làm điều phi pháp...kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức cướp bóc những người giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả. Lê Chiêu Thống được nhà Thanh phong cho là "An Nam quốc vương", thực ra chỉ là bù nhìn. Hằng ngày y tìm ách trả thù báo oán rất tàn ngược, đến chấu chực tại dinh Tôn Sĩ nghị rất nhục nhã. Có lần Sĩ Nhị không tiếp, sai người ra bảo "Hôm nay không có việc quân quốc gi, xin về cung nghỉ". Người dân Thăng Long nói với nha: "Nướ

Tài liệu đính kèm:

  • dochinh_thanh_ki_nang_su_dung_tu_lieu_lich_su_cho_hoc_sinh_tron.doc