Dạy học môn tin học theo định hướng mô hình giáo dục stem qua ví dụ lắp ghép đèn tự bật / tắt khi trời tối / sáng
Ngày 19 tháng 01 năm 2018, Bộ Giáo dục và đào tạo đã công bố dự thảo 20 chương trình môn học phổ thông mới, trong đó có môn Tin học. Với chương trình giáo dục phổ thông mới, năng lực Tin học là một trong mười năng lực cốt lõi mà học sinh phổ thông cần hình thành và phát triển. Môn Tin học có sứ mạng giúp học sinh có được năng lực tin học.
Tuy nhiên nếu chúng ta không đổi mới phương pháp dạy học, không tạo được hứng thú học tập cho học sinh, không có bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học năng lực tin học của học sinh sẽ không khác hiện tại là bao. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
Giáo dục STEM xuất hiện ở Việt Nam trong vài năm trở lại đây, hiện nay mới đang ở bước truyền thông và mang tính thử nghiệm, chưa thực sự trở thành một hoạt động giáo dục chính thức trong trường phổ thông. Tuy nhiên, giáo dục STEM với nhiệm vụ cung cấp các kiến thức và kĩ năng cần thiết cho học sinh thế kỉ 21 sẽ là mô hình giáo dục diện rộng trong tương lai gần của thế giới. Do vậy, giáo dục STEM rất cần sự quan tâm và nhận thức của toàn xã hội. Hiện nay ở Việt Nam, STEM và giáo dục STEM nói riêng vẫn chưa được nghiên cứu sâu. Các bài viết, tài liệu về giáo dục STEM ở Việt Nam hiện nay mới chỉ mang tính chất thông tin và bình luận. Hiện chưa có công trình nào bàn về cơ sở lí luận của giáo dục STEM và vận dụng nó vào dạy học bộ môn.
Nội hàm môn Tin học là môn học cốt lõi, cơ bản kết nối chặt trẽ các định hướng STEM và là nền tảng của CMCN 4.0, trong đó khoa học máy tính đã có yếu tố tích hợp STEM (Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học)), do đó việc nghiên cứu về giáo dục STEM nói chung và dạy học môn Tin học theo định hướng giáo dục STEM nói riêng là hoàn toàn có cơ sở và phù hợp với định hướng đổi mới căn bản giáo dục trong giai đoạn mới theo hướng phát triển năng lực ở người học nhằm đáp ứng những đòi hỏi của xã hội hiện đại.
Với các lí do trên tôi chọn đề tài: “Dạy học môn tin học theo định hướng mô hình giáo dục STEM qua ví dụ Lắp ghép đèn tự bật/tắt khi trời tối/sáng ” bước đầu tiếp cận với hình thức dạy học hướng vào năng lực của học sinh và mô hình dạy học STEM tại trường.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT TRẦN ÂN CHIÊM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI “DẠY HỌC MÔN TIN HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG MÔ HÌNH GIÁO DỤC STEM QUA VÍ DỤ LẮP GHÉP ĐÈN TỰ BẬT/TẮT KHI TRỜI TỐI/SÁNG” Người thực hiện: Hà Thị Hương Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tin học THANH HOÁ NĂM 2019 Mục lục 1. Mở đầu 2 1.1. Lí do chọn đề tài. 2 1.2. Mục đích nghiên cứu. 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu. 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 4 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 4 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 4 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 7 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 17 3. Kết luận, kiến nghị 18 3.1. Kết luận. 18 3.2. Kiến nghị 18 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Ngày 19 tháng 01 năm 2018, Bộ Giáo dục và đào tạo đã công bố dự thảo 20 chương trình môn học phổ thông mới, trong đó có môn Tin học. Với chương trình giáo dục phổ thông mới, năng lực Tin học là một trong mười năng lực cốt lõi mà học sinh phổ thông cần hình thành và phát triển. Môn Tin học có sứ mạng giúp học sinh có được năng lực tin học. Tuy nhiên nếu chúng ta không đổi mới phương pháp dạy học, không tạo được hứng thú học tập cho học sinh, không có bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học năng lực tin học của học sinh sẽ không khác hiện tại là bao. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Giáo dục STEM xuất hiện ở Việt Nam trong vài năm trở lại đây, hiện nay mới đang ở bước truyền thông và mang tính thử nghiệm, chưa thực sự trở thành một hoạt động giáo dục chính thức trong trường phổ thông. Tuy nhiên, giáo dục STEM với nhiệm vụ cung cấp các kiến thức và kĩ năng cần thiết cho học sinh thế kỉ 21 sẽ là mô hình giáo dục diện rộng trong tương lai gần của thế giới. Do vậy, giáo dục STEM rất cần sự quan tâm và nhận thức của toàn xã hội. Hiện nay ở Việt Nam, STEM và giáo dục STEM nói riêng vẫn chưa được nghiên cứu sâu. Các bài viết, tài liệu về giáo dục STEM ở Việt Nam hiện nay mới chỉ mang tính chất thông tin và bình luận. Hiện chưa có công trình nào bàn về cơ sở lí luận của giáo dục STEM và vận dụng nó vào dạy học bộ môn. Nội hàm môn Tin học là môn học cốt lõi, cơ bản kết nối chặt trẽ các định hướng STEM và là nền tảng của CMCN 4.0, trong đó khoa học máy tính đã có yếu tố tích hợp STEM (Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học)), do đó việc nghiên cứu về giáo dục STEM nói chung và dạy học môn Tin học theo định hướng giáo dục STEM nói riêng là hoàn toàn có cơ sở và phù hợp với định hướng đổi mới căn bản giáo dục trong giai đoạn mới theo hướng phát triển năng lực ở người học nhằm đáp ứng những đòi hỏi của xã hội hiện đại. Với các lí do trên tôi chọn đề tài: “Dạy học môn tin học theo định hướng mô hình giáo dục STEM qua ví dụ Lắp ghép đèn tự bật/tắt khi trời tối/sáng ” bước đầu tiếp cận với hình thức dạy học hướng vào năng lực của học sinh và mô hình dạy học STEM tại trường. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Tiếp cận cơ sở lí luận về giáo dục STEM và cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn về dạy học môn tin học nói chung và bài học số 8, tin học 10 nói riêng theo định hướng giáo dục STEM. Xác định quy trình dạy học môn Tin học theo định hướng giáo dục STEM và vận dụng vào dạy học môn Tin học trong trường phổ thông. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh lớp 10C3, 10C4, 10C5, 10C7 trường THPT Trần Ân Chiêm. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng một số nhóm phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách báo tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo mục đích nghiên cứu. - Phương pháp quan sát: Thực hiện quan sát quá trình giảng dạy của đồng nghiệp, các video liên quan tới nội dung đề tài trên internet Quan sát học sinh trong quá trình học tập trong lớp, ngoài giờ học tập, đặc biệt là theo dõi trong những giờ thảo luận của học sinh nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học tích cực, định hướng và phát triển năng lực cho học sinh. - Phương pháp điều tra phỏng vấn: Tiến hành thiết lập một số câu hỏi dạng trắc nghiệm và tự luận cho một số nhóm học sinh và điều tra qua phiếu liên quan đến việc phân tích đánh giá việc học của học sinh, hay thông qua phỏng vấn trực tiếp qua đó nắm bắt được thực trạng. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Thông qua các sản phẩm làm ra của học sinh như các sản phẩm, kết quả thực hành, bài tập tự học, làm việc theo nhóm, theo chủ đề, bài kiểm tra của học sinh hoặc bài làm cá nhân nhằm để phân tích, đánh giá sản phẩm và nhận định đưa kết luận đúng khi dạy học. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Qua các hoạt động, Giáo viên ghi chép qua đó đúc rút kinh nghiệm được và chưa được để tổng hợp đi đến kết luận - Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh hiện nay đang được triển khai giai đoạn 2 đến các trường THPT trong toàn quốc, phương pháp này rất phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục nước ta. Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng năng lực là tạo điều kiện quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng của học sinh. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và tính hệ thống của tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở kết quả đầu ra mà còn phụ thuộc quá trình thực hiện. Mô hình giáo dục STEM ngoài trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng lồng ghép liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, còn giúp người học không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể áp dụng để thực hành và tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày đáp ứng được yêu cầu trong đổi mới giáo dục 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. a. Thuận lợi: Mô hình giáo dục tiên tiến của giáo dục STEM; tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học, luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề thực tiễn cho học sinh, hướng dẫn học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu của “học” qua “hành” trong giáo dục STEM. Do đó Học sinh đam mê với bài giảng, hứng thú với môn học. Từ năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo hàng năm đã tổ chức cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học sinh trung học” và cuộc thi “Dạy học theo chủ đề tích hợp dành cho giáo viên trung học”. Cuộc thi là cơ hội khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức của các môn học khác nhau để giải quyết các tình huống thực tiễn; tăng cường khả năng vận dụng tổng hợp, khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh; thúc đẩy việc gắn kiến thức lí thuyết và thực hành trong nhà trường với thực tiễn đời sống; đẩy mạnh thực hiện dạy học theo phương trâm "học đi đôi với hành"; góp phần đổi mới hình thức, PPDH và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; thúc đẩy sự tham gia của gia đình, cộng đồng vào công tác giáo dục. Đối với giáo viên, đây cũng là cơ hội khuyến khích giáo viên sáng tạo, thực hiện dạy học theo chủ đề, chủ điểm có nội dung liên quan đến nhiều môn học và gắn liền với thực tiễn; tăng cường hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học; tạo cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên trung học trên toàn quốc và thế giới Về cơ bản, đây là một hình thức của giáo dục STEM. b. Khó khăn: Mô hình giáo dục STEM mới được triển khai ở các thành phố lớn, tại trường chúng tôi giáo viên chưa được tiếp cận với mô hình giáo dục này. Giáo viên chưa biết thế nào là mô hình dạy học STEM, áp dụng môn học của mình, các bài học với mô hình STEM này như thế nào. Tất cả kiến thức, điều kiện áp dụng là do tôi tự mình học hỏi qua các nguồn thông tin. Cơ sở vật chất và điều kiện kinh tế chi phí cho các thiết bị công nghệ cao khá đắt đỏ. Năng lực học sinh có nhiều hạn chế, chưa chủ động trong tìm hiểu kiến thức. Cần nhiều thời gian: một tiết học 45 phút không thể đáp ứng được nhiệm vụ STEM ở mức độ trung bình và khó, học sinh đang học thụ động giờ chuyển sang chủ động sẽ cần nhiều thời gian để tìm hiểu thông tin, cách học tập c. Mặt mạnh: - Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, các em học sinh, sinh viên được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức khoa học. - Giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học. Đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát minh. Người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị: + phải biết cách mở rộng kiến thức; + phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết. - Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp. Nó theo cách tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn môn học (Science, Technology, Engineering and Mathematics) như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, người học vừa được học lý thuyết, vừa được học cách vận dụng vào thực tiễn. - Giáo dục STEM sẽ phá đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn. Tạo ra môi trường làm việc với những con người có tay nghề chuyên nghiệp. d. mặt yếu: - Nếu đưa giáo dục STEM áp dụng đại trà sẽ rất khó khăn cho các trường về kinh phí vì chi phí để tổ chức một tiết học, một chuyên đề là rất lớn; việc liên hệ cho học sinh đi thực tế gặp nhiều khó khăn nhất là những trường học tại nông thôn; để thực hiện một chuyên đề giáo dục theo định hướng STEM cả giáo viên và học sinh đều rất vất vả, mất thời gian, công sức chuẩn bị từ trước đó... e. Phân tích đánh giá các vấn đề mà thực trạng đề tài đã đề ra: Mô hình giáo dục STEM, có nhiều điểm ưu thế trong thời đại mới, tuy nhiên nó không thể thay thế hoàn toàn các mô hình, phương pháp cũ, do đó chúng ta cần vận dụng linh hoạt mô hình này vào trong chương trình dạy học, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học và phát triển những phẩm chất năng lực cơ bản cho học sinh. Những điều giáo viên cần biết và rèn luyện * Nhận thức đầy đủ một cách có hệ thống về quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục theo đinh hướng phát triển năng lực học sinh và mô hình giáo dục STEM. - Là đặt người học vào trung tâm của quá trình dạy học, tạo cơ hội tới mức tối đa để học sinh được tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua các hoạt động trên lớp. Đây cũng chính là cách học có hiệu quả nhất. Học qua các hình thức sau: - Trải nghiệm: Học qua thực tế, học từ những kinh nghiệm thông qua việc làm (thực hành) và qua khám phá tìm tòi của các em. - Giao tiếp: Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau những gì mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. “Học thầy không tày học bạn” - Học qua tương tác: (Sự qua lại) Chia sẻ với bạn bè những kinh nghiệm của mình và học kinh nghiệm từ bạn bè cũng như người lớn. - Rút kinh nghiệm: Sau những lần thất bại, các em cố gắng làm lại lần nữa, lần sau sẻ tốt hơn lần trước. Từ những kinh nghiệm học tập đó, các em có thể áp dụng vào các tình huống khác. * Biết được tầm quan trọng và ích lợi của mô hình dạy học STEM. Hiểu STEM như thế nào? * Hiện nay thuật ngữ STEM được dùng trong hai ngữ cảnh khác nhau đó là ngữ cảnh giáo dục và ngữ cảnh nghề nghiệp. - Trong ngữ cảnh giáo dục, nói đến STEM là muốn nhấn mạnh đến sự quan tâm của nền giáo dục đối với các môn Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học. Quan tâm đến việc tích hợp các môn học trên gắn với thực tiễn để 17 năng cao năng lực cho người học. Giáo dục STEM có thể được hiểu và diễn giải ở nhiều cấp độ như: chính sách STEM, chương trình STEM, nhà trường STEM, môn học STEM, bài học STEM hay hoạt động STEM. - Trong ngữ cảnh nghề nghiệp, STEM được hiểu là nghề nghiệp thuộc các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học, ví dụ: Nhóm ngành nghề về CNTT; Y sinh; Kĩ thuật, Điện tử và Truyền thông. Tùy từng ngữ cảnh khác nhau mà STEM được hiểu như là các môn học hay các lĩnh vực. Quy trình giáo dục STEM: Quy trình 5 giai đoạn trong một chuỗi quá trình dạy học: Quy trình tiếp cận theo lí thuyết thiết kế kĩ thuật: Hình 1a. Mô hình 5 giai đoạn hướng dẫn tích hợp STEM. Hình 1b. Vòng lặp thiết kế trong giáo dục STEM 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. a. Mục tiêu: Mô hình giáo dục STEM nhằm: - Phát triển các năng lực đặc thù của các môn học thuộc về STEM cho học sinh. - Phát triển các năng lực cốt lõi cho học sinh. - Định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Với mô hình học tập STEM giáo viên và học sinh có các đặc điểm chủ yếu: Học sinh: chủ động, tích cực, sáng tạo, tự học, tự tin, tự đánh giá, có không gian mở để phát triển các kỹ năng. Học sinh có cơ hội để có thể tự đặt mình vào những tình huống trong đời sống thực tế, được quan sát, trải nghiệm, thảo luận và giải quyết vấn đề theo suy nghĩ cá nhân. Từ đó, tự tìm tòi kiến thức, kĩ năng mới, không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được phát huy tiềm năng tư duy sáng tạo Giáo viên: giáo viên sẽ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh, hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa, áp dụng tri thức vào thực tiễn, đem lại niềm vui, sự hứng thú học hỏi cho học sinh. giáo viên cần phải thật sự kiên trì, nỗ lực, dần dần xây dựng phương pháp học chủ động từ thấp lên cao, cho các em học sinh thích ứng dần. Trong quá trình giảng dạy, cần tác động tinh thần học tập của các em, khuyến khích động viên bằng nhiều hình thức thi đua khác nhau. Qua đó sẽ rèn cho các em phương pháp tự học, tự tìm tòi khám phá kiến thức nhằm phát huy tính tự giác trong học tập. Bên cạnh đó, việc sử dụng các trò chơi hoặc tổ chức các cuộc thi ứng dụng kiến thức đã học để tạo ra sản phẩm đơn giản trong giảng dạy được xem là một trong những phương pháp hiệu quả, đóng vai trò quan trọng làm tăng động cơ học tập, khích lệ học sinh, đồng thời tạo sự hứng thú giúp học sinh yêu thích hơn việc ngiên cứu sáng tạo khoa học kỹ thuật. b. Các giải pháp, biện pháp. Dạy Mô hình lớp học mới ở học sinh và giáo viên có các kỹ năng sau : Kỹ năng xây dựng, định hướng, đánh giá chủ đề STEM: Kỹ năng này đòi hỏi giáo viên luôn phải học hỏi, vận dụng và sáng tạo trong chuyên môn Kỹ năng giao tiếp, tương tác học sinh với học sính + Biết lắng nghe và trình bày ý kiến một cách rõ ràng. + Biết lắng nghe và biết thừa nhận ý kiến của người khác. + Biết ngắt lời một cách hợp lí. + Biết phản đối một cách lịch sự và đáp lại lời phản đối. + Biết thuyết phục người khác và đáp lại sự thuyết phục. Kỹ năng tạo môi trường hợp tác. Đây là sự ảnh hưởng qua lại, sự gắn kết giữa các thành viên. Kỹ năng xây dựng niềm tin Đây là kỹ năng tránh đi sự mặc cảm nhất là đối tượng học sinh có khó khăn về học. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn Đây là kỹ năng giúp học sinh tránh những từ ngữ dễ gây mất lòng nhau. Vì thế, trong thảo luận cần tránh những từ ngữ như đúng, sai mà cần thay vào đó những cụm từ như: thế này sẽ tốt hơn, tìm một giải pháp hợp lý hơn c. Nội dung và cách thức thực hiện: Nội dung áp dụng: - Theo các chủ đề từng môn hoặc tích hợp liên môn. phạm vi áp dụng: - Dạy trong các chương trình chính khóa ở các môn học STEM. - Nhiệm vụ học tập về nhà. - Tổ chức chức theo hình thức câu lạc bộ - Hoạt động nghiên cứu khoa học... Các mức độ dạy học môn Tin học theo định hướng giáo dục STEM - Lồng ghép bộ phận . - Lồng ghép toàn phần. - Dạy học STEM trên cơ sở phối hợp nhiều bài. Quy trình dạy học: Hình 2. Quy trình dạy học môn Tin học theo định hướng giáo dục STEM Bước 1: Xây dựng chủ đề: Hình 3. Quy trình xây dựng chủ đề giáo dục STEM Một số tiêu chí nhằm xác định về một chủ đề giáo dục STEM. Chủ đề STEM hướng tới giải quyết các vấn đề trong thế giới thực Vận dụng kiến thức STEM để giải quyết các vấn đề thực tiễn chính là mục tiêu của dạy học theo quan điểm STEM. Chủ đề STEM phải hướng tới việc học sinh vận dụng các kiến thức trong lĩnh vực STEM để giải quyết Tiêu chí này nhằm đảm bảo theo đúng tinh thần giáo dục STEM, qua đó mới phát triển được những năng lực chuyên môn liên quan. Chủ đề STEM định hướng thực hành. Chủ đề STEM khuyến khích làm việc nhóm giữa các học sinh Bước 2. Xây dựng nội dung học tập: Đây là giai đoạn giáo viên cụ thể hóa mục tiêu kiến thức của chủ đề học tập, hướng tới hình thành các năng lực chung và năng lực chuyên biệt. Căn cứ vào thời gian dự kiến, mục tiêu và có thể là đặc điểm tâm sinh lí, yếu tố vùng miền để xây dựng nội dung cho phù hợp. Ở đây, cần trả lời các vấn đề: Chủ đề có các hoạt động gì? Các hoạt động đó nhằm đạt tới mục tiêu gì? Nội dung dạy học có liên quan như thế nào với các mục tiêu và nội dung môn Công nghệ và giáo dục STEM? Biểu hiện thực tế của mối liên hệ đó? Bước 3. Thiết kế thành các chủ đề STEM: Có thể chia các chủ đề STEM như sau: Hình 4. Chủ đề STEM được dạy trong một môn học duy nhất Hình 5. Chủ đề STEM được dạy trong nhiều môn học Hình 6. Chủ đề STEM nhiều môn phối hợp. Thiết kế nhiệm vụ Trên cơ sở nội dung của chủ đề, xây dựng các nhiệm vụ học tập tương ứng. Cần xác định rõ người thực hiện nhiệm vụ, làm cá nhân hay nhóm, nhiệm vụ được thực hiện trong giai đoạn nào, thời gian bao lâu Một số loại hình nhiệm vụ như: thu thập thông tin, thiết kế, trình bày. Khi xây dựng các nhiệm vụ cần hướng đến hình thành các năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự học, năng lực quản lí, sáng tạo, giao tiếp và các năng lực chuyên biệt đã xác định cho môn Công nghệ THPT. Bước 4. Tổ chức thực hiện: Đây là bước triển khai nội dung học tập tới toàn thể học sinh. Gồm các giai đoạn cơ bản sau (Hình 7 ): * Giới thiệu: Ở giai đoạn này giáo viên, nêu rõ mục tiêu cụ thể hoạt động (cần hoàn thành công việc gì? Hình thành được kĩ năng gì? Thời gian và mức độ cần hoàn thành? Điều kiện thực hiện? Cách đánh giá? Các quy định về an toàn và vệ sinh lao động...). - Kiểm tra, hồi phục lại những kiến thức - kĩ năng. Đây là cơ sở để đưa ra các giải pháp, giải quyết các nhiệm vụ học tập, cung cấp hiểu biết và những hướng dẫn mới cần thiết. - Nêu khái quát trình tự công việc, phương tiện, cách thức tiến hành, các thao tác, động tác chính... * Trải nghiệm: Đây là giai đoạn giáo viên tổ chức cho học sinh vận dụng các kiến thức được học để thiết kế sản phẩm. Một số công việc triển khai là phân nhóm, giao nhiệm vụ, phân chia dụng cụ, vật liệu giáo viên theo dõi, uốn nắn, hướng dẫn thường xuyên và kiểm tra từng bước, từng phầ
Tài liệu đính kèm:
- day_hoc_mon_tin_hoc_theo_dinh_huong_mo_hinh_giao_duc_stem_qu.doc