SKKN Vận dụng trò chơi trong giảng dạy - Một cách thức tạo hứng thú cho giờ dạy học Ngữ văn ở bậc THPT

SKKN Vận dụng trò chơi trong giảng dạy - Một cách thức tạo hứng thú cho giờ dạy học Ngữ văn ở bậc THPT

1.1 Dạy học là một hoạt động đặc biệt. Nó là tổng hợp của nghệ thuật sử dụng các phương pháp sư phạm, cách thức truyền thụ kiến thức cũng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xử lí tình huống sư phạm. Bởi vậy, người dạy luôn phải tìm tòi, đổi mới không ngừng để có thể đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người học.

1.2 Dạy học Ngữ văn cũng không phải ngoại lệ. Đó là một hoạt động đòi hỏi giáo viên phải trang bị nhiều kiến thức chuyên ngành, văn hóa, kĩ năng truyền đạt, cảm thụ. Tuy nhiên, nếu người dạy không tìm tòi các cách thức truyền thụ kiến thức, các phương pháp học tích cực, chủ động thì hoạt động dạy và học sẽ trở nên nhàm chán, không tạo được hứng thú, say mê cho người học.

1.3 Môn Ngữ văn ở cấp THPT giúp người học phát triển các năng lực, phẩm chất tổng quát và đặc thù: năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học. Ngoài ra môn Ngữ văn còn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Người dạy và người học đều xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản ở môn học này đó là: nghe, nói, đọc, viết. Bởi vậy, người dạy không những phải nắm chắc các kĩ năng, mục đích giảng dạy của môn học mà còn phải luôn cập nhật thông tin, làm mới bài giảng, cách truyền thụ bằng những phương pháp dạy học hiện đại.

 

doc 25 trang thuychi01 18874
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng trò chơi trong giảng dạy - Một cách thức tạo hứng thú cho giờ dạy học Ngữ văn ở bậc THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
	MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Dạy học là một hoạt động đặc biệt. Nó là tổng hợp của nghệ thuật sử dụng các phương pháp sư phạm, cách thức truyền thụ kiến thức cũng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xử lí tình huống sư phạm... Bởi vậy, người dạy luôn phải tìm tòi, đổi mới không ngừng để có thể đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người học. 
1.2 Dạy học Ngữ văn cũng không phải ngoại lệ. Đó là một hoạt động đòi hỏi giáo viên phải trang bị nhiều kiến thức chuyên ngành, văn hóa, kĩ năng truyền đạt, cảm thụ. Tuy nhiên, nếu người dạy không tìm tòi các cách thức truyền thụ kiến thức, các phương pháp học tích cực, chủ động thì hoạt động dạy và học sẽ trở nên nhàm chán, không tạo được hứng thú, say mê cho người học.
1.3 Môn Ngữ văn ở cấp THPT giúp người học phát triển các năng lực, phẩm chất tổng quát và đặc thù: năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học. Ngoài ra môn Ngữ văn còn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Người dạy và người học đều xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản ở môn học này đó là: nghe, nói, đọc, viết. Bởi vậy, người dạy không những phải nắm chắc các kĩ năng, mục đích giảng dạy của môn học mà còn phải luôn cập nhật thông tin, làm mới bài giảng, cách truyền thụ bằng những phương pháp dạy học hiện đại.
1.4 Thực tế dạy và học Ngữ văn ở bậc THPT cho thấy tồn tại nhiều bất cập. Nhiều người chưa tìm được cách dạy, chưa áp dụng những phương pháp tiên tiến, chưa cập nhật. Nhiều phương pháp dạy học hiện đại mặc dù đã được giới thiệu, triển khai ở các sở GD, các trường THPT, trong các văn bản chỉ đạo chuyên môn hàng năm nhưng việc ứng dụng, đưa vào thực tế giảng dạy còn nhiều vướng mắc, khó khăn. 
1.5 Phương pháp ứng dụng trò chơi trong dạy học đã được khẳng định là một trong những phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm không chỉ với môn ngữ văn mà còn ở nhiều môn học khác. Tuy nhiên, ở nhiều trường học, không ít giáo viên vẫn chưa nhìn thấy hết được những điều thú vị, hiệu quả từ phương pháp này. Một số giáo viên đã áp dụng nhưng chưa đồng bộ, khoa học, bài bản. Bởi vậy, chúng tôi chọn đề tài: Vận dụng trò chơi trong giảng dạy- một cách thức tạo hứng thú cho giờ dạy học Ngữ văn ở bậc THPT nhằm góp thêm một phương pháp dạy học theo hướng tích cực, hiệu quả cho đồng nghiệp. Đồng thời mong muốn góp một cái nhìn vào việc đổi mới cách dạy và học văn hiện nay, khi mà nhiều tiết dạy và học văn ở bậc THPT vẫn trong tình trạng: giáo viên độc chiếm lớp học, độc quyền chân lí, nhiều tiết học vẫn là thuyết giảng, thầy đọc trò chép, dạy máy móc, học rập khuôn khiến cho cả giáo viên và học sinh nhiều cảm thấy học văn nhàm chán, đơn điệu, không mấy hứng thú. 
2. Mục đích nghiên cứu
- Nhận ra những ưu thế của phương pháp dạy học ứng dụng trò chơi trong việc tạo ra môi trường, không khí dạy học dân chủ, tích cực, hiện đại. 
- Chỉ ra cách thức giảng dạy môn ngữ văn bằng cách ứng dụng các trò chơi trí tuệ phù hợp trong các tiết đọc hiểu văn bản, ôn tập hệ thống hóa kiến thức, việc ứng dung trò chơi trong giờ dạy học Ngữ văn. Đó cũng là cách học tích cực chủ động, hiện đại chiếm nhiều ưu thế vượt trội hơn những phương pháp học truyền thống khác.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Các trò chơi trong dạy học.
- Áp dụng trò chơi trong các bài học chủ yếu thuộc chương trình ngữ văn 10 THPT, 11 THPT. 
- Học sinh các lớp 10 C6,11A5, 11A9 trường THPT Nông Cống 1
4. Phương pháp nghiên cứu 
 Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: dự giờ đồng nghiệp, nhận xét rút kinh nghiệm từ những bài giảng này.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Thống kê, xử lí số liệu.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận 
 1.1 Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục khẳng định đổi mới CT theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Cách tiếp cận này đặt ra mục tiêu căn bản là giúp cho HS có thể làm được gì sau khi học, chứ không tập trung vào việc xác định HS cần học những gì để có được kiến thức toàn diện về các lĩnh vực chuyên môn. Đồng thời Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu tổng quát: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời; đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
 Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Theo hướng phát triển mạnh năng lực và phẩm chất người học, bảo đảm hài hòa đức, trí, thể, mỹ; thực hiện tốt phương châm mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân
 Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.” Để thực hiện mục tiêu này, giáo dục phổ thông cần “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống văn hóa, lịch sử, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”[3].
 Rõ ràng, khi mục tiêu giáo dục đào tạo được thay đổi căn bản, thì bắt buộc chương trình khung, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo cũng phải thay đổi phù hợp.  Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ, gặt hái được nhiều thành công trong giảng dạy.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Đặc trưng môn học
2.1.1 Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn, thuộc nhóm KHXH. Là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong nhà trường phổ thông.
2.1.2 Môn Ngữ văn giúp HS phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học.
2.1.3 Môn Ngữ văn ở trường phổ thông không được dạy học như một bộ môn khoa học nhằm trang bị cho HS hệ thống các khái niệm khoa học. Tất cả các năng lực và phẩm chất trên đây đều được phát triển thông qua các hoạt động dạy học, xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói và nghe. Các kiến thức lí thuyết về tiếng Việt, lịch sử văn học, lí luận văn học và tập làm văn chủ yếu được dùng như là phương tiện tiến hành các hoạt động dạy học đó.
2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1 Thực tiễn dạy học Ngữ văn ở các trường THPT trong thời gian gần đây cho thấy cách dạy học Ngữ văn vẫn theo kiểu cũ, theo lối mòn thầy đọc trò chép. Nhiều giáo viên chưa biết chọn lọc kiến thức trọng tâm nên thường nhồi nhét rất nhiều kiến thức, không dành cho học sinh trao đổi, trình bày ý kiến của mình. Học sinh ít được bàn luận, đưa ra ý kiến riêng. Rất nhiều GV vẫn còn dạy theo kiểu áp đặt yêu cầu học sinh phải theo, phải ghi nhớ, và phải nhắc lại, viết lại. Không ít người dạy theo kiểu nghiên cứu, đưa ra quá nhiều kiến thức hàn lâm, khó hiểu, khiến học sinh ngại học, bị áp lực và nặng nề. Bởi vậy mà học sinh đã học một cách thụ động, thiếu sáng tạo. không ít học sinh cảm thấy ngại học, học đối phó, không khí giờ học nặng nề, không mấy hứng thú. Mặt khác, nhiều giáo viên chưa truyền được ngọn lửa đam mê của mình đến học sinh nên những tiết học Ngữ văn thường là đối phó cho xong. 
2.2.2 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng dạy và học văn đáng buồn như đã nói ở trên. Tuy nhiên, một nguyên nhân rất dễ nhận thấy đó là giáo viên chưa biết áp dụng những phương pháp dạy học tích cực, hiện đại, và việc ứng dụng trò chơi vẫn chỉ được áp dụng thưa thớt trong các tiết dạy, lẻ tẻ ở một bộ phận nhỏ GV.
3. Ứng dụng trò chơi - Một cách thức tạo hứng thú cho giờ dạy học Ngữ văn
 Ở SKKN này, chúng tôi, xin giới thiệu phương pháp ứng dụng trò chơi trong dạy học vốn được mệnh danh là phương pháp của nền giáo dục tiên tiến - là phương pháp dạy học đầy sáng tạo, hiệu quả hiện đang được ngành giáo dục khuyến khích đưa vào thực hiện trong giảng dạy và học tập, trong đó có dạy học Ngữ văn ở bậc THPT.
3.1. Khái niệm Trò chơi - Trò chơi trong dạy học
 Trò chơi dạy học có nguồn gốc từ nền giáo dục dân gian, trong những trò chơi đầu tiên của mẹ với con, trong những trò vui và bài hát khôi hài làm cho đứa trẻ chú ý đến những vật xung quanh, gọi tên các vật đó. Những trò chơi đó có chứa đựng các yếu tố dạy học. 
 Tổng hợp nhiều nguồn tài liệu, có thể hiểu trò chơi dạy học được hiểu là trò chơi có nhiệm vụ giáo dục có nội dung và luật chơi do Gv sử dụng tuân theo nguyên lí của Lí luận dạy học. Trò chơi học tập là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên chủ yếu là vui chơi giải trí, thư giãn. Nhưng qua trò chơi học tập người chơi còn có thể được rèn luyện về các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè đồng đội trong nhóm, tổ.. Thông qua trò chơi học tập học sinh có điều kiện "Học mà chơi, chơi và học". Khi tham gia vào các trò chơi học tập học sinh sẽ được tưởng tượng và suy ngẫm, thử nghiệm các tình huống, cách lập luận để đạt kết quả cao. Trò chơi có tác dụng giúp học sinh: Tăng cường khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học phát huy tính năng động của các em; nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng thẳng trong học tập của học sinh; phát triển tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận; tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học; tăng cường khả năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh, và giữa học sinh với nhau, giúp học sinh rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp; thu hút cả lớp theo dõi tham gia các hoạt động. Khi chơi, các em tưởng tượng, suy ngẫm, thử nghiệm, lập luận để đạt kết quả mà không nghĩ là mình đang học. Kiến thức cung cấp trong giờ ngữ văn sẽ được giảm nhẹ, quá trình học tập diễn ra một cách tự nhiên hơn, hấp dẫn hơn.
Trò chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú trong giờ học của học sinh. Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn học đặc biệt là đối với môn Văn.
 Bởi vậy, có thể khẳng định rằng: vận dụng trò chơi là một phương pháp học tích cực, hiệu quả trong giáo dục và ngày càng trở thành xu thế trong dạy học hiện đại, nhất là trong thực tế nhiều phương pháp dạy học khác đã trở nên lạc hậu và lỗi thời, không đem lại hiệu quả giáo dục. 
3.2 Nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ dạy Văn
 Do đặc thù của mỗi phân môn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có những điểm khác nhau. Tuỳ thuộc nội dung bài học: Đọc hiểu- làm văn, Tiếng Việt, bài khái quát, ôn tập hay luyện tập; tùy thuộc lượng kiến thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò chơi: trò chơi nhỏ dành cho một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học. Ví dụ ở giờ Đọc hiểu văn bản, do đặc thù của phân môn với mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương, đòi hỏi những cảm xúc tinh tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa phải. còn ở tiết tiếng Việt có thể vận dụng nhiều trò chơi vào tiết học này. Giờ học Tiếng Việt sẽ không còn khô cứng, học sinh sẽ cảm thấy thoải mái, hứng thú, kích thích hoạt động tư duy của các em. Qua trò chơi, tư duy và khả năng ngôn ngữ của các em sẽ được bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện và uốn nắn kịp thời những mặt còn hạn chế. Với giờ Làm văn, có thể vận dụng trò chơi trong một số tiết học và không nên thực hiện hình thức này trong cả tiết. Ở phân môn này, việc lồng ghép hình thức trò chơi không thể thay thế được các phương pháp cũng như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực hành, luyện tập, hoạt động theo nhóm hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng. 
 Có bài chỉ sử dụng vào khâu khởi động kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập. Có tiết dạy sử dụng trò chơi nhằm hình thành tri thức mới. Trò chơi thường được tổ chức sau khi đã tìm hiểu hoạt động tìm hiểu ngữ liệu, giáo viên tổ chức trò chơi cho học sinh khám phá, phát hiện ra tri thức mới, tri thức đó nằm ngay trong nội dung bài học. có thể sử dụng trò chơi để hình thành kỹ năng. Từ đó, giúp học sinh hình thành được những kỹ năng lựa chọn, cách giải quyết khi gặp những tình huống trong cuộc sống cũng như một số kỹ năng quan trọng khi làm bài...
 Giáo viên cần vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và đúng lúc để không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc; trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng tạo không khí cởi mở, vui vẻ trong lớp học. 
3.3 Một số trò chơi vận dụng hiệu quả trong giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc THPT
 Trong quá trình dạy học tôi đã vận dụng thành công một số trò chơi sau:
3.3.1 Trò chơi Hỏi nhanh, đáp nhanh
Mục đích: Áp dụng trò chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả học sinh trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu kém. Trò chơi này áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện của một nội dung, khái niệm của một bài học nào đó các em có thể thảo luận, phát hiện và nêu ra những biểu hiện đó.
Cách tiến hành trò chơi:
- Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân.
- Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và công bố luật chơi.
- Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng.
 Hình 1: Một tiết học lớp 11A5 vận dụng trò chơi Hỏi nhanh đáp nhanh.
Ví dụ: Khi dạy bài Ôn tập Văn học Trung đại. Giáo viên áp dụng trò chơi này bằng cách chia lớp theo 4 nhóm. Gv chuẩn bị 4 gói câu hỏi, môi nhóm sẽ được nghe câu hỏi và trả lời nhanh. Nhóm nào trả lời nhanh và đúng nhiều hơn thì nhóm đó thắng cuộc. Điểm của nhóm sẽ được với mức quy đinh ban đầu. Với hình thức này giáo viên vừa ôn lại kiến thức cũ mà các em đã học ở cấp học dưới vừa hình này được tri thức mới của bài học một cách rất nhẹ nhàng.
Hoặc khi dạy bài “Văn học dân gian” Tiết Ngữ Văn 10- Tập 1, thì giáo viên tổ chức cho các em liệt kê những thể loại văn học dân gian vào phiếu, sau đó đại diện của các nhóm lên bảng dán vào ô của nhóm mình. Nhóm nào trả lời nhanh nhất và đúng nhất thì được thưởng. Hình thức thưởng có thể là tích điểm theo nhóm, tổng kết vào cuối tháng để cho điểm miệng hoặc 15 phút. 
Với trò chơi này, Hs rèn luyện được lối hợp tác, làm việc nhóm, nâng cao trách nhiệm các nhân với tập thể. Vì nếu nhóm trả lời chậm và sai, cũng có thể ảnh hưởng tới điểm thưởng của từng cá nhân.
3.3.2. Trò chơi Tập làm diễn giả
 Mục đích: Trò chơi này tập cho các em luôn tự tin, mạnh dạn khi trình bày một vấn đề trước đám đông. Qua trò chơi, các em tự rút bài học kinh nghiệm cho bản thân: như kĩ năng giao tiếp, ứng xử khi gặp những tình huống cụ thể trong cuộc sống. Nắm bắt bài học một cách cụ thể dễ dàng.
Hình 2: Một buổi học sinh được tập làm diễn giả
Cách tiến hành trò chơi:
- Chọn 1 học sinh dẫn chương trình. 
- Chọn 2-3 học sinh là khách mời để thực hiện trò chơi. Cả lớp và giáo viên là khán giả.
- Thời gian: tiến hành vào buổi học bồi dưỡng.
Ví dụ: Khi dạy bài Các khuynh hướng và trào lưu văn học. GV giao trước vấn đề cho các nhóm chuẩn bị. các nhóm này chuẩn bị về nội dung và cử đại diện nhóm trình bày. Hs đại diện cho nhóm sẽ là nhận vật tập làm MC. Các học sinh còn lại vai khán giả có thể đặt những câu hỏi để hỏi những vị khách mời bất cứ câu hỏi nào có nội dung xoay quanh bài học. Như vậy, đòi hỏi các vị khách mời phải biết sáng tạo, linh hoạt, nhanh nhạy trong xử lý tình huống khi người dẫn chương trình và khán giả hỏi. Qua thực tế cho thấy, những học sinh vai những vị khách mời rất thích mình được đóng vai những nhân vật trên, cho nên các em luôn thể hiện rõ bản lĩnh, phong cách chững chạc, tự tin của mình trước khán giả. Còn khán giả thì rất thích để tìm ra những câu hỏi hóc búa, hỏi những vị khách mời, xem có trả lời được khôngTrò chơi diễn ra khoảng 90 phút, giáo viên tuyên bố kết thúc cuộc chơi và cho cả lớp nhận xét: cách trình bày vấn đề của mỗi bạn? các bạn trình bày theo trình tự như thế nào nào ? Ai được cả lớp khen nhiều, ủng hộ nhiều sẽ được nhận được món quà nhỏ của giáo viên thưởng. 
Qua trò chơi học sinh dễ tiếp thu kiến thức của bài học một cách trực quan sinh động. Khi trình bày một vấn đề thường theo các bước: Bắt đầu trình bày (Bước lên diễn đàn như thế nào? Chào cử tọa và tự giới thiệu bằng lời lẽ, cử chỉ ra sao?). Trình bày nội dung chính (Bắt đầu nội dung thứ nhất thế nào? Làm thế nào để chuyển ý từ nội dung này sang nội dung khác? Cần điều chỉnh nội dụng, tư thế cách nói ra sao khi người nghe có phản ứng...) Và cuối cùng là kết thúc và cảm ơn. Từ đó cho thấy học sinh động hẳn lên, học sinh đã nhận biết, thông hiểu và vận dụng kiến thức bài học vào thực tế trong một tình huống giả định 
3.3.3. Trò chơi phân vai
 Áp dụng: cho giờ đọc văn, học hiểu văn bản, với các tác phẩm tự sự, kịch
Hiểu như vậy thì “sắm vai” là phương pháp học sinh thực hành,“ làm thử”, diễn thử một đoạn hội thoại nào đó hay đóng vai một nhân vật trong một đoạn trích, tác phẩm nào đó. 
Mục đích: Sắm vai nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, nhận ra vấn đề, giúp buổi học sinh động, có kết quả hơn Giúp chính học sinh đóng vai cảm nghiệm được tâm lý, thái độ, hành vi của đối tượng mình đóng vai, khắc sâu và hiểu tác phẩm hơn. Giúp học sinh tự nhận ra những thế mạnh, hạn chế của chính mình khi rơi vào tình huống của vai đã đóng.
 Cách tiến hành trò chơi:
- Dựa vào nội dung từng bài học, giáo viên đưa ra tình huống là một đoạn hội thoại hay sắm vai theo nhân vật trong một đoạn trích, tác phẩm nào đó. Người sắm vai là những học sinh xung phong, tình nguy

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_van_dung_tro_choi_trong_giang_day_mot_cach_thuc_tao_hun.doc
  • docHan_BÌA SKKN. ĐÃ SỬA. HÂN (1).doc
  • docHan_MỤC LỤC SKKN218.doc