Chuyên đề Phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn Lớp 6 (phần Tiếng Việt)

Nguyên nhân chủ quan:
Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu kém có thể kể đến là do:
- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận, với chương trình học tập hiện nay, để có thể học tốt, đặc biệt là các môn như Toán, Văn, Anh… thì để việc học tập có kết quả đòi hỏi trước đó học sinh phải vốn kiến thức nhất định. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều học sinh đã không có được những vốn kiến thức cơ bản ngay từ lớp nhỏ, từ đó càng lên các lớp lớn hơn, học những kiến thức mới có kiên quan đến những kiến thức cũ thì học sinh đã quên hết cho nên việc tiếp thu kiến thức mới trở thành điều rất khó khăn đối với các em.
- Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các em học sinh yếu kém là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, không làm bài tập, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy vở ra “học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có phương pháp và động cơ học tập đúng đắn. Học sinh không dành thời gian cho việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới,các em chỉ học đối phó còn trông chờ thầy cô giải giúp.
- Chưa nắm được phương pháp học tập: Các em vừa từ tiểu học lên cấp 2 chưa quen với phương pháp học tập mới. Khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh còn hạn chế chưa mạnh dạn phát biểu thiếu tự tin trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc; đôi khi hay mặc cảm không dám hỏi thầy cô hoặc bạn bè.
- Đa số học sinh yếu kém hay ỷ lại vào sách tham khảo, sách hướng dẫn, sách giải có sẵn ngoài thị trường, không chịu đầu tư tìm hiểu.
- Do sức khỏe yếu, khả năng nhận thức hạn chế, tiếp thu chậm:Một số em thể trạng yếu, không thích nghi với điều kiện thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột dễ mắc bệnh dẫn đến phải nghỉ học, đến khi khỏi bệnh đi học lại thì tiếp thu không kịp bài. Hoặc một số em có bệnh bẩm sinh, trí tuệ kém thông minh cũng là nguyên nhân dẫn đến yếu kém.
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN VĨNH TƯỜNG TRƯỜNG THCS YÊN LẬP --------------------------- CHUYÊN ĐỀ PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN NGỮ VĂN LỚP 6 (PHẦN TIẾNG VIỆT) GV: LÊ THỊ THU PHƯƠNG Trường THCS Yên Lập- Vĩnh Tường Vĩnh Tường, tháng 10 năm 2019 1 VĂN 6 Bài TSố 0 2 4 5 7 8 Khối khảo Dự HS - - - - - - 10 sát thi <2 <4 <5 <7 <8 <10 Đầu 136 136 năm 4 13 36 59 12 12 0 Giữa 136 136 6 kỳ I 2 9 19 49 34 25 0 3. Nguyên nhân vẫn còn tỉ lệ học sinh yếu kém: Từ thực tế giảng dạy với kết quả khảo sát đầu năm của bộ môn và các khối lớp của nhà trường tronng năm học 2018-2019, chúng tôi xác định những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng học sinh có sức học trung bình, yếu, kém. 3.1 Về phía học sinh Nguyên nhân chủ quan: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu kém có thể kể đến là do: - Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận, với chương trình học tập hiện nay, để có thể học tốt, đặc biệt là các môn như Toán, Văn, Anh thì để việc học tập có kết quả đòi hỏi trước đó học sinh phải vốn kiến thức nhất định. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều học sinh đã không có được những vốn kiến thức cơ bản ngay từ lớp nhỏ, từ đó càng lên các lớp lớn hơn, học những kiến thức mới có kiên quan đến những kiến thức cũ thì học sinh đã quên hết cho nên việc tiếp thu kiến thức mới trở thành điều rất khó khăn đối với các em. - Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các em học sinh yếu kém là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, không làm bài tập, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy vở ra “học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có phương pháp và động cơ học tập đúng đắn. Học sinh không dành thời gian cho việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới,các em chỉ học đối phó còn trông chờ thầy cô giải giúp. - Chưa nắm được phương pháp học tập: Các em vừa từ tiểu học lên cấp 2 chưa quen với phương pháp học tập mới. Khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh còn hạn chế chưa mạnh dạn phát biểu thiếu tự tin trong học tập do hiểu chưa sâu, 3 tâm vào học tập, dần dần sa sút, không theo kịp bạn bè. Hậu quả ắt dẫn đến sự yếu kém trong học tập của các em. - Một số gia đình có khả năng về điều kiện kinh tế nhưng không quan tâm đến việc học hành của con em hàng ngày, không biết được thời gian học của các em bắt đầu lúc mấy giờ và kết thúc khi nào, thời khóa biểu hôm nay có mấy tiết gồm những môn gì? Không đôn đốc, nhắc nhở và tạo điều kiện học tập cho các em, họ cứ nghĩ học đến đâu hay đến đó, thích học thì cho học, chán thì cho nghỉ. - Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi, đi du lịch, giả vờ ốm,...) cha mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém. Trước tình hình như vậy tôi đã xây dựng chuyên đề: “ Phụ đạo học sinh yếu kém môn Ngữ văn lớp 6 - phần Tiếng Việt” nhằm giảm tỉ lệ học sinh yếu kém nâng cao chất lượng giáo dục. IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ THỜI LƯỢNG. - Đối tượng: Học sinh yếu kém môn Ngữ văn lớp 6. - Thời lượng: Dự kiến thời lượng dạy phụ đạo là 12 tiết. V. HỆ THỐNG CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐẶC TRƯNG CỦA CHUYÊN ĐỀ. Hiện nay một bộ phận học sinh học yếu phần Tiếng Việt do các em còn yếu về việc nhận diện từ, câu, chưa biết vận dụng từ câu trong khi nói và viết. Chính vì vậy tôi đưa ra một số dạng bài tập như sau: Dạng 1: Bài tập nhận diện từ. Đặc trưng của các dạng bài tập này là giúp học sinh nhận biết và thông hiểu những kiến thức cơ bản về khái niệm về từ, nghĩa của từ, từ loại trong phần tiếng Việt lớp 6. Ở dạng bài tập này giáo viên đặt các câu hỏi để kiểm tra trí nhớ của học sinh về các dữ liệu, số liệu, các định nghĩa,. . . Việc trả lời các câu hỏi này giúp học sinh ôn lại được những gì đã học, đã đọc hoặc đã trải qua. Các từ để hỏi thường là: - Tìm. . . - Cái gì? - Bao nhiêu? - Cái nào? - Em biết những gì về? - Khi nào? - Bao giờ? - Hãy mô tả? 5 2. Các biện pháp trước và sau khi tiến hành dạy học trên lớp Ngoài các phương pháp trên để giảm tỉ lệ học sinh yếu kém tôi cũng đã kết hợp một số biện pháp trước và sau khi tiến hành dạy học trên lớp: 2. 1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học sinh sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình. Giáo viên không nên dùng biện pháp đuổi học sinh ra ngoài không cho học sinh học tiết học đó khi học sinh không ngoan, không chép bài. Vì làm như thế học sinh sẽ không được học tiết đó thế là học sinh lại có một buổi học không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở học sinh giáo dục ý thức học tập của học sinh hoặc dùng một biện pháp giáo dục đó chứ đừng đuổi học sinh ra ngoài trong giờ học. Ví dụ 1: Học sinh Hạ Văn A, học sinh lớp 6C, không thích học môn văn và các môn học khác nhưng vì bị gia đình ép buộc đi học nên đến lớp không chú ý nghe giảng mà chỉ lo nói chuyện, làm mất trật tự trong giờ học, chọc phá bạn bè làm cho bạn học không được. Kết quả là học sinh đó học tập kém. Hướng giải quyết: Trước tiên, giáo viên cần trao đổi với chính học sinh đó để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của học sinh, đồng thời hỏi bạn bè của học sinh đó về hoàn cảnh gia đình và sinh hoạt của học sinh. Từ đó giáo viên tìm hiểu được nguyên nhân và thường xuyên gần gũi, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh nhận thấy tầm quan trọng của việc học. Bên cạnh đó, giáo viên trao đổi với gia đình, phối hợp với gia đình giáo dục ý thức của học sinh, khuyên nhủ gia đình không nên quá gò ép học sinh mà từ từ hướng dẫn học sinh học tập, thường xuyên gần gũi giúp đỡ em để em thấy được sự quan tâm của gia đình mà phấn đấu. 2. 2. Kèm cặp học sinh yếu kém: Ngay từ đầu năm, giáo viên phải lập danh sách học sinh yếu kém bộ môn mình ở năm học trước để nắm rõ các đối tượng học sinh, lập danh sách học sinh yếu kém và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết học như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời, khen ngợi khi các em trả lời đúng Tổ chức các nhóm học tập cho học sinh, trong nhóm có đủ các đối tượng học sinh khá, giỏi, trung bình, yếu kém. Lên kế hoạch cụ thể cho các nhóm học 7 nhưng ta vẫn khen, tuyên dương trước lớp, động viên các em có tiến bộ để khuyến khích các em sự tự tin khi trả lời và hứng thú học tập hơn. - Ngược lại, nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập sáng tạo của học sinh. 2. 4. Một số biện pháp đối với học sinh cá biệt. Đối với các học sinh cá biệt thì việc giúp cho các em vươn lên là một điều hết sức khó khăn vì các em không có ý thức học tập, vào lớp thì không chịu học bài, không chú ý nghe giáo viên giảng bài, về nhà không chuẩn bị bài. . . Đối với đối tượng học sinh này, giáo viên bộ môn cần phải phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nhắc nhở các em về ý thức học tập, thường xuyên kiểm tra tập của học sinh, khi học sinh vi phạm thì giáo viên nên kết hợp với phụ huynh để răn đe, giáo dục các em. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình giám sát việc học nhóm, học phụ đạo của học sinh. 2. 5. Rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên: Giáo viên cần phải không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tìm ra và vận dụng tốt các phương pháp dạy học mới. Người giáo viên dạy giỏi mới giúp cho học sinh có thể đi đến lĩnh hội tri thức một cách dễ dàng và nhanh chóng. Giáo viên thường xuyên dự giờ trao đổi rút kinh nghiệm một cách thẳng thắng để cùng bàn bạc tìm ra phương pháp dạy học hay cho từng nội dung giảng dạy. Với mức độ phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì việc giáo viên tìm tòi học hỏi những sáng kiến kinh nghiệm của các bạn ở nơi xa cũng không phải là một chuyện quá khó. Giáo viên chỉ cần chịu khó tìm hiểu thêm về Internet để biết cách truy cập mạng tìm những sáng kiến kinh nghiệm về đọc để có thể rèn luyện thêm về kĩ năng và phương pháp giảng dạy. VII. HỆ THỐNG CÁC VÍ DỤ, BÀI TẬP CỤ THỂ CÙNG LỜI GIẢI MINH HỌA CHO CHUYÊN ĐỀ. Dạng 1: Bài tập nhận diện từ. 1. Nhận diện từ xét về mặt cấu tạo: - Đối với dạng bài tập này trước hết giáo viên giúp các em nắm được về cấu tạo từ: gồm từ đơn và từ phức. + Từ đơn:là từ chỉ gồm một tiếng. + Từ phức: là từ gồm hai hoặc nhiều tiếng. Những từ phức được tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau được gọi là từ ghép. Còn những từ phức có quan hệ láy âm giữa các tiếng được gọi là từ láy. - Từ lí thuyết giúp các em nhận diện từ thông qua các bài tập. * Lưu ý, trước khi làm bài tập giáo viên nhắc học sinh - Đọc kỹ đầu bài. - Xác định chính xác các yêu cầu. 9
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_phu_dao_hoc_sinh_yeu_kem_mon_ngu_van_lop_6_phan_ti.doc