Vận dụng phương pháp tích hợp vào dạy tác phẩm “Chí phèo” của nhà văn nam cao (chương trình Ngữ văn 11 cơ bản)

Vận dụng phương pháp tích hợp vào dạy tác phẩm “Chí phèo” của nhà văn nam cao (chương trình Ngữ văn 11 cơ bản)

 Dạy học theo hướng tích hợp đang là một phương pháp dạy học hiện đại được quan tâm, nghiên cứu và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Với quan điểm lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, người thầy đóng vai trò tổ chức còn học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Do đó, vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu, áp dụng phương pháp dạy học tích hợp để nhằm tích cực hóa hoạt động và vai trò của học sinh, phát huy đầy đủ năng lực của học sinh, từ đó hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục một cách hiệu quả nhất.

 Hơn nữa, hiện nay, sách giáo khoa ngữ văn bậc học THPT đã có nhiều thay đổi. Các phân môn Văn học – Tiếng việt – Làm văn được hợp nhất thành môn học Ngữ văn với một quyển sách Ngữ văn duy nhất ( Trước đó gồm 3 quyển khác nhau). Sự họp nhất như vậy đánh dấu sự tích hợp kiến thức của các phân môn lại trong một chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, Ngữ văn là một môn học có sự tích hợp nhiều nhất, không chỉ là sự hợp lực của ba phân môn mà còn vận dụng kiến thức của các môn học khác, kiến thức trong đời sống xã hội, các tri thức kỹ năng, phương pháp giảng dạy, từ kinh nghiệm của thực tiễn. Do đó, vấn đề tích hợp là nội dung không thể thiếu trong việc đổi mới thay sách, đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn trong nhà trường hiện nay.

 Ngoài ra, phương pháp dạy học tích hợp đòi hỏi người dạy phải trang bị những kĩ năng cần thiết, vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp, thao tác để quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động của học sinh tốt hơn. Song, vấn đề tích hợp còn quá mới mẻ, nhiều bất cập, gây ra những khó khăn cho đội ngũ cán bộ giáo viên.

 

doc 26 trang thuychi01 17922
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vận dụng phương pháp tích hợp vào dạy tác phẩm “Chí phèo” của nhà văn nam cao (chương trình Ngữ văn 11 cơ bản)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP VÀO DẠY TÁC PHẨM “CHÍ PHÈO” CỦA NHÀ VĂN NAM CAO (CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 CƠ BẢN)
Người thực hiện:	Hoàng Thị Uyên
Chức vụ	:	Giáo viên
SKKN thuộc môn:	Ngữ văn
THANH HÓA 2019
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
 Dạy học theo hướng tích hợp đang là một phương pháp dạy học hiện đại được quan tâm, nghiên cứu và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Với quan điểm lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, người thầy đóng vai trò tổ chức còn học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Do đó, vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu, áp dụng phương pháp dạy học tích hợp để nhằm tích cực hóa hoạt động và vai trò của học sinh, phát huy đầy đủ năng lực của học sinh, từ đó hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục một cách hiệu quả nhất. 
 Hơn nữa, hiện nay, sách giáo khoa ngữ văn bậc học THPT đã có nhiều thay đổi. Các phân môn Văn học – Tiếng việt – Làm văn được hợp nhất thành môn học Ngữ văn với một quyển sách Ngữ văn duy nhất ( Trước đó gồm 3 quyển khác nhau). Sự họp nhất như vậy đánh dấu sự tích hợp kiến thức của các phân môn lại trong một chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, Ngữ văn là một môn học có sự tích hợp nhiều nhất, không chỉ là sự hợp lực của ba  phân môn mà còn vận dụng kiến thức của các môn học khác, kiến thức trong đời sống xã hội, các tri thức kỹ năng, phương pháp giảng dạy, từ kinh nghiệm của thực tiễn. Do đó, vấn đề tích hợp là nội dung không thể thiếu trong việc đổi mới thay sách, đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn trong nhà trường hiện nay.
 Ngoài ra, phương pháp dạy học tích hợp đòi hỏi người dạy phải trang bị những kĩ năng cần thiết, vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp, thao tác để quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động của học sinh tốt hơn. Song, vấn đề tích hợp còn quá mới mẻ, nhiều bất cập, gây ra những khó khăn cho đội ngũ cán bộ giáo viên. 
Chương trình Ngữ Văn 11 – tập 1 – ban cơ bản là chương trình với nhiều nội dung hay và khó đối với giáo viên và học sinh. Việc tổ chức cho học sinh nắm bắt các văn bản một cách chủ động, tích cực, hiệu quả và toàn diện vô cùng khó khăn. Bộ phận văn xuôi giai đoạn 1900 – 1945 gồm những tác phẩm có dung lượng khá dài, chia làm hai xu hướng văn học chính là xu hướng văn học lãng mạn và xu hướng văn học hiện thực. Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy, nếu dạy theo phương pháp tích hợp ở những văn bản này, học sinh sẽ có cách tiếp cận tác phẩm toàn diện và hiệu quả hơn việc dạy theo kiểu truyền thống. Chính vì thế, tôi chọn đề tài “ Vận dụng phương pháp dạy học ngữ văn theo hướng tích hợp vào giảng dạy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao trong chương trình Ngữ văn 11, ban cơ bản, tập 1” với hi vọng đem đến những trải nghiệm bước đầu khi ứng dụng phương pháp dạy học mới mẻ này. 
	 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 
 Việc đưa phương pháp tích hợp vào dạy học tác phẩm văn chương nói chung và tác phẩm văn xuôi hiện thực nói riêng là từng bước cải tiến chất lượng dạy và học môn Ngữ Văn ở nhà trường phổ thông hiện nay, là hứa hẹn những triển vọng đưa nền giáo dục Việt Nam hội nhập với khu vực và quốc tế. Cụ thể là: 
 Xác định nội hàm của tích hợp trong dạy học môn Ngữ Văn. 
 Khẳng định những khả năng thực hiện tích hợp trong dạy học Văn ở nhà trường THPT. 
 Đề ra một số biện pháp thực hiện tích hợp trong dạy học những tác phẩm hiện thực, đặc biệt là tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. 
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 
 Do thời gian và năng lực của người thực hiện có hạn, chúng tôi xin phép giới hạn đề tài trong phạm vi vận dụng những lí luận của quan điểm tích hợp để xây dựng một mô hình thiết kế bài soạn chung nhất cho giờ dạy học tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao trong chương trình sách giáo khoa 11, ban Cơ bản ở nhà trường THPT. 
 Phần khảo sát, chúng tôi đã tiến hành giảng dạy, tổng hợp, đánh giá, thiết kế bài soạn tác phẩm Chí Phèo trong năm học 2018 – 2019 cho học sinh lớp 11A9 và các lớp khối 11 của trường THPT Chu Văn An - thành phố Sầm Sơn.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
 Cùng với việc nghiên cứu liên quan đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương, chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên Văn học ở THPT, các tài liệu hướng dẫn biên soạn giảng dạy môn Ngữ văn THPT, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế ở nhà trường THPT Chu Văn An để tìm ra những ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học tách bạch các bộ phận của môn Ngữ văn. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đưa ra những nguyên tăc và biện pháp thiết kế một bài soạn tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI BÀI SOẠN THEO PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP VÀO TÁC PHẨM CHÍ PHÈO CỦA NAM CAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA 1 – TẬP 1 – CƠ BẢN. 
	Những thập kỷ gần đây, thế giới đang chịu sự tác động của những thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin ngày nay đã len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Nó không những mang lại cho chúng ta những thuận lợi trong sinh hoạt, công việc mà nó còn làm đảo lộn mọi quan điểm tưởng chừng như không thể thay đổi. Đúng như các nhà khoa học đã từng nhận định: “Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần trước nhằm giải phóng đôi bàn tay, còn cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần này nhằm giải phóng cho bộ não con người”  (1). (Phan Trọng Luận – cb – Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông , tập 1, NXB GD 1996). Đó là mục tiêu đào tạo con người cho thời đại mà nền giáo dục của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đặt làm nhiệm vụ. 
 	Xuất phát từ những biến đổi đó, những năm gần đây chúng ta đã làm quen với những khuynh hướng, tư tưởng như: tích hợp, liên ngành, liên môn, xuyên môn với chung một mục đích là chấm dứt tình trạng “chia ô các bộ môn”. Phương pháp tích hợp hiện nay được xem là sự lựa chọn của các nước trong khu vực và trên thế giới: Mĩ, Úc, Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan, Indonexia, nhưng ở Việt Nam quan điểm này xem ra vẫn còn mới mẻ. Gần đây chúng ta đã thực hiện biên soạn lại chương trình từ cấp tiểu học, THCS, THPT. Chương trình “lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” (2), (Phan Trọng Luận “Phương pháp dạy học Văn” tập 1, NXB GD 2001). 
 	Việc áp dụng rộng rãi phương pháp tích hợp vào giáo dục ở hầu hết các nước và đang từng bước được đưa vào nền giáo dục Việt Nam càng khẳng định thêm những bước đi vững chắc trong quá trình hội nhập.. 
 2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
 2.2.1. Dạy học theo quan điểm tích hợp phù hợp với mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông hiện đại. 
 	Trước kia, mỗi môn học tồn tại biệt lập, có mục tiêu riêng nhằm trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản để hiểu biết thế giới xung quanh thì ngày nay chúng ta phải đặt ra mục tiêu thống nhất. Không những sau khi ra trường các em thích nghi với cuộc sống mà ngay khi còn ở trường, ở lớp các em phải hòa nhập được ngay với cuộc sống hiện tại. huống chi môn Ngữ văn (bao gồm các bộ phận: Văn học, Tiếng Việt, Làm Văn) là một môn học nền tảng, có tác dụng quan trọng tạo nên trình độ văn hóa của con người. Như vậy, dạy và học tốt môn Ngữ Văn còn là điều kiện để phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại, giáo dục tư tưởng, tình cảm cao đẹp cho người công dân tương lai. 
 (1) Phan Trọng Luận – cb – Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông , tập 1, NXB GD 1996) 
(2) Phan Trọng Luận “Phương pháp dạy học Văn” tập 1, NXB GD 2001). 
Chương trình phân ban THPT vừa qua, đã khách quan nhìn nhận: “Nguyên tắc tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải quán triệt trong toàn bộ môn học, Từ Văn học đến Làm văn, Tiếng Việt; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt mọi yếu tố của hoạt động học tập, tích hợp trong chương trình, tích hợp trong SGK, tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học tập của HS, tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo”.
 Trong phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi chỉ chú trọng vào việc áp dụng nó (phương pháp tích hợp) vào trong dạy học. Đặc biệt ở phạm vi hẹp hơn là chỉ tích hợp các bộ phận (Văn học, Tiếng Việt, Làm văn) vốn có của môn Ngữ Văn vào đề tài của mình, hi vọng sẽ đem lại những hiệu quả sau: 
Tiết kiệm được thời gian đào tạo; khắc phục tình trạng quá tải về kiến thức. 
Tránh trùng lặp, dư thừa kiến thức trong đào tạo. 
Rèn luyện tư duy tổng hợp cho học sinh. 
Thiết kế mới theo quan điểm tích hợp phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương. 
2.2.2. Những hạn chế của hướng dạy học tách biệt các bộ phận của môn Ngữ Văn. 
- Tách biệt các phân môn sẽ dẫn đến giáo viên và học sinh thiếu ý thức gắn kết các phần khác của chương trình. 
- Tiếp cận tác phẩm văn xuôi hiện thực một cách phiến diện, không có cái nhìn tổng thể. Qua thực tế, chúng tôi kiểm tra học sinh thấy: (những bài viết của các em có chung một cách diễn giải là kể lể rất nhiều, chưa biết phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự; nhiều bài làm diễn đạt khá hay nhưng theo nếp cũ không có sự tư duy, sáng tạo nêu suy nghĩ riêng của mỗi cá nhân), vận dụng quan điểm tích hợp có thể khắc phục được tình trạng này. 
Tác phẩm văn chương là một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh thì một tiết dạy văn trên lớp cũng là một chỉnh thể nghệ thuật dạy, thể hiện tài năng sư phạm của người thầy. Chỉnh thể nghệ thuật dạy sẽ ngày càng hoàn chỉnh nếu giáo viên chúng ta biết trau dồi, học hỏi và phát hiện những phương pháp mới tiến bộ. Phương pháp tích hợp trong giáo dục hiện nay là phù hợp trong dạy học, đặc biệt là môn Ngữ văn.
2.3. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP VÀO DẠY HỌC TÁC PHẨM CHÍ PHÈO CỦA NAM CAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 – TẬP 1 – BAN CƠ BẢN
2.3.1. Một số yêu cầu khi vận dụng biện pháp tích hợp vào dạy học:Dạy học theo hướng tích hợp phải đảm bảo những yêu cầu chung của dạy học 
2.3.1.1. Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt ở mỗi bài học cụ thể 
Chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng của môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau mỗi đơn vị kiến thức (mỗi bài, chủ đề, chủ điểm, mô đun). Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học sẽ được cụ thể hoá trong mục tiêu của từng bài học, giờ học. Một trong những cơ sở quan trọng của quá trình dạy học là bám sát mục tiêu của môn học, từ đó xác định năng lực cần được hình thành và phát triển ở người học. 
2.3.1.2. Phải tuân theo một tiến trình dạy học hợp lý 
Nội dung phần Văn xuôi hiện thực 11 chính là cung cấp kiến thức, hình thành thái độ và trau dồi kĩ năng sống cho học sinh. Do đó, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn học sinh khám phá, giải mã các đơn vị kiến thức; đồng thời, nâng thêm một bước về nhận thức, thái độ sống và các kĩ năng cần thiết.
Bước 1: GV gợi dẫn để HS tự chiếm lĩnh những tri thức văn học sử: tác giả, tác phẩm. 
Bước 2: Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV, HS lần lượt khám phá các đơn vị kiến thức về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Bước 3: Trên cơ sở kết quả của bước 2, GV đánh giá, tổng kết. Từ đó nâng cao thêm một bước về nhận thức, năng lực cũng như kĩ năng sử dụng. 
2.3.1.3. Dạy học tích hợp phải đáp ứng được yêu cầu dạy học thực tiễn 
Đối với bậc THPT, trên cơ sở nhận thức khoa học và văn học, những kiến thức về Đọc Văn mà HS có được, hình thành cho các em những thái độ sống đúng đắn cũng như những kĩ năng sống thiết thực trong đời sống thực tiễn.\
 Đây chính là vốn liếng đầu tiên mà nhà trường phải tạo cho các em để các em tự tin bước vào cuộc sống tương lai sau khi tốt nghiệp phổ thông. Do vậy, việc vận dụng biện pháp tích hợp cần bám sát mục tiêu dạy học và đáp ứng được với yêu cầu của thực tiễn đối với môn học Ngữ văn. 
2.3.2. Lựa chọn nội dung tích hợp phải hợp lý, tự nhiên, tránh gượng ép 
Nội dung tích hợp của ba phần trong môn Ngữ văn (Văn học, Tiếng Việt, Làm văn) là rất phong phú, có thể tích hợp trong từng thời điểm (một tiết học, một bài học). Bên cạnh tích hợp theo từng thời điểm, giáo viên còn có thể tích hợp theo từng vấn đề. Tích hợp theo hướng này, giáo viên có thể vận dụng những kiến thức đã học hoặc sẽ học trong chương trình để dạy một kiến thức thuộc về chính phân môn này, cũng có thể thuộc về các phân môn khác. Đối với các đơn vị kiến thức cũ (đã dạy), giáo viên dùng để tích hợp nhằm củng cố, ôn tập, so sánh, đối chiếu, đồng thời rèn cho HS ý thức và kĩ năng vận dụng “cái đã biết” để xử lý các vấn đề trước mắt, hình thành “cái chưa biết”. Đối với các đơn vị kiến thức sẽ hình thành trong tương lai (sẽ dạy), giáo viên đưa ra để gợi mở, giúp HS hình dung được mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức trong chương trình. Qua đó, khơi gợi được tinh thần ham hiểu biết, muốn được khám phá trong HS, có nghĩa là tăng hứng thú cho người học. Không những vậy, việc dạy phần đọc hiểu tác phẩm văn xuôi hiện thực trong nhà trường cần tích hợp với đời sống xã hội. Trong quá trình tích hợp cần có các biện pháp tích hợp trong chính phân môn đọc văn, tích hợp ngang với các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, ngoài ra gắn nội dung bài học với đời sống thực tế để phát triển kĩ năng sống cho học sinh.
Sau khi xác định được các đơn vị kiến thức có thể tích hợp trong từng tiết dạy, bài học cụ thể, giáo viên cần lựa chọn mức độ và phạm vi tích hợp. Vấn đề chọn nội dung nào để tích hợp và tích hợp đến đâu là vấn đề không đơn giản. Mặc dù ý đồ tích hợp được người biên soạn SGK thể hiện trong từng bài cũng như trong toàn bộ chương trình Ngữ văn 11. 
2.3.3. Đảm bảo giảm tải được kiến thức, rút ngắn được thời gian học tập cho HS 
Khi tổ chức dạy học theo hướng tích hợp giáo viên cần lựa chọn phương pháp phù hợp, nội dung thích hợp, cách thức hợp lý sao cho giảm tải được kiến thức và rút ngắn được thời gian học tập mà vẫn đạt được mục tiêu dạy học. Muốn vậy, đối với mỗi bài học, bên cạnh việc xác định nội dung tích hợp một cách hợp lý thì GV còn cần lựa chọn kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học. Một bài học có thể hướng tới việc cung cấp nhiều kiến thức, hình thành các kĩ năng khác nhau nhưng với thời lượng có hạn của các giờ học trên lớp thì việc lựa chọn và nhấn mạnh tới kiến thức, kỹ năng trọng tâm là điều rất cần thiết. Dạy học tích hợp không nằm ngoài định hướng đó. Mặt khác, như đã nói ở trên, bản chất của dạy học tích hợp là phải đảm bảo rút ngắn thời gian học tập cho HS. Tức là với lượng thời gian ít nhất mà HS có thể có được nhiều nhiều kiến thức và kĩ năng nhất. Vì vậy cần tích hợp tối đa những kiến, kĩ năng mà HS đã có để tránh sự chồng chéo, dư thừa không cần thiết. 
2.3.4. Quy trình tích hợp 
 Bước 1: Nghiên cứu và phân tích mục đích và nội dung dạy học. 
Bước 2: Chọn lọc những nội dung HS đã được học ở những năm trước hoặc tiết học trước (cả ở môn học khác). 
Bước 3: Lựa chọn nội dung, vấn đề tích hợp Tiếng Việt với phần Văn và phần Làm văn, các kiến thức có liên quan ở các môn học khác và từ thực tiễn cuộc sống (trang bị thêm kiến thức có tính chất giáo dục).
Bước 4: Lựa chọn cách thức tích hợp, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tích hợp. 
Bước 5: Kiểm tra, điều chỉnh cho phù hợp. 
2.3.5. Một số phương pháp tích hợp 
2.3.5.1. Tích hợp trong nội dung dạy học 
2.3.5.1.1. Tích hợp trong môn học 
Tích hợp trong môn học trước hết là tích hợp giữa phần Đọc văn và Tiếng Việt, Làm văn. Như vậy trong quá trình tích hợp phải giúp học sinh nhận thấy những đặc điểm về ngôn ngữ, quy tắc tiếng Việt, những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc được sử dụng. Ngoài ra, quá trình đọc văn là quá trình định hướng cho học sinh những luận điểm, luận cứ cơ bản cho quá trình làm văn của học sinh.Tiếng Việt với phần Văn. Bởi vậy trong dạy học Ngữ văn tích hợp giữa Tiếng Việt – Đọc văn – Làm văn vừa tiết kiệm thời gian vừa giúp HS hiểu sâu hơn nội dung kiến thức của từng phần. Đối với phần đọc - hiểu văn bản, những hiểu biết về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách học Tiếng Việt sẽ góp phần tạo nên tiềm lực phân tích và cảm thụ các tác phẩm văn chương. Có khi phân tích một từ một câu có thể giúp HS hiểu thêm nghệ thuật và các giá trị khác của tác phẩm. 
Tích hợp trong nội bộ môn học còn đồng nghĩa với việc thực hiện tích hợp giữa đọc văn với làm văn, tích hợp giữa hai tác phẩm thuộc cùng xu hướng văn học hiện thực với nhau. Do đó, giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu những nội dung kiến thức các em đã biết để chỉ nhắc lại những nội dung cần thiết. Khi tích hợp với các kiến thức HS đã được biết tức là chạm tới vùng phát triển gần sẽ gây được hứng thú học tập cho HS. Từ kiến thức HS đã có liên hệ, mở rộng, dẫn dắt, định hướng để HS tự chiếm lĩnh những kiến thức mới. 
2.3.5.1.2. Tích hợp liên môn 
Thực tế cho thấy, phần đọc hiểu tác phẩm văn học có mối quan hệ chặt chẽ với các phân môn khác, đặc biệt là Lịch sử, địa lí, Giáo dục công dân. Do đó, dạy đọc hiểu tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm văn xuôi hiện thực nói riêng cần có sự tích hợp liên môn. Những kiến thức liên môn không chỉ làm cho bài học phong phú, đa dạng mà còn góp phần khắc sâu kiến thức của phần đọc văn. Chẳng hạn, khi dạy về tiểu sử của Nam Cao cần có kiến thức lịch sử về xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp trước năm 1945. Mặt khác khi khai thác hình ảnh làng Vũ Đại nghèo trong tác phẩm cần có kiến thức địa lí về làng Vũ Đại trong thực tế để học sinh nắm rõ hơn vấn đề. Ngoài ra cần liên hệ những bài học về đạo đức trên các lĩnh vực như lòng yêu thương con người, cũng như cách ứng xử có văn hóa trong cuộc sống. Quá trình tích hợp liên môn như vậy sẽ góp phần cho học sinh những bài học về kĩ năng sống.
2.3.5.1.3. Tích hợp với kiến thức thực tế ngoài cuộc sống 
Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, HS đã dùng tiếng Việt để giao tiếp trong đời sống từ thuở ấu thơ, trước khi được học về tiếng Việt trong nhà trường. Từ thực sử dụng, HS có được những hiểu biết khá phong phú về tiếng Việt. Vì thế, dạy học loại bài thực hành tiếng Việt nói riêng và phần Tiếng Việt trong nhà trường nói chung không thể không tích hợp với vốn kiến thức mà HS đã có. Mặt khác, tiếng Việt trong đời sống rất phong phú và sinh động. Do vậy tích hợp với kiến thức thực tế ngoài đời sống, không chỉ giúp HS vận dụng được cái đã có vào bài học mà còn giúp HS phát hiện và thấy được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt. Thực tế cuộc sống không chỉ cung cấp cho HS kiến thức về tiếng Việt mà còn rèn luyện cho các em các kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Cho nên việc tích hợp này sẽ góp phần làm cho các giờ học Tiếng Việt bớt khô khan, trở nên hấp dẫn, tạo được hứng thú học tập cho HS. 
2.3.6. Tích hợp trong Đọc hiểu tác phẩm Chí Phèo
2.3.6.1. Dạy Đọc – hiểu văn bản văn học nói chung:
Theo phương pháp tích hợp, dạy đọc – hiểu là quá trình giúp học sinh qua việc tiếp xúc với văn bản thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn; thấy được vai trò, hiệu quả biểu đạt của các hình thức, biện pháp ngôn từ, ý nghĩa hình tượng nghệ thuật, những thông điệp, tư tưởng, tình cảm của người viết gửi gắm trong những tác phẩm cụ thể. Đồng thời qua nhiều tác phẩm đọc – hiểu cùng thể loại cần giúp học sinh nắm vững đặc trưng từng thể loại. Do vậy cần:
- Xem đọc – hiểu là quá trình hướng dẫn học sinh tiếp nhận, hiểu kĩ và sâu văn bản.
- Trang bị cho người học kiến thức và phương pháp đọc văn thông qua tiếp cận tác phẩm tiêu biểu trong cùng thể loại, từng giai đoạn lịch sử nhất định, hình thành kiến thức một cách có hệ thống.
Các bước đọc – hiểu bao gồm:
 - Tìm hiểu tác giả: cuộc đời, sự nghiệp, quan điểm sáng tác, phong cách nghệ thuật
 - Đời sống: lối sống, cách ứng xử của con người hiện nay, đặc biệt là thanh niên, học sinh.
- Giáo dục công dân: Bài học về lòng nhân đạo.
- Xác định hoàn cảnh ra đời ( đặt trong bối cảnh chung của lịch sử - xã hội).
- Xác định thể loại và đặc trưng thể loại ( đặt trong mối quan hệ với các thể loại khác).
- Định hướng kết cấu, chủ đề tác phẩm.
Giáo viên tiến hành đọc – hiểu trên cơ sở chú ý một số dạng câu hỏi sau:
-Câu hỏi phát hiện từ ngữ khó, điển tích, điển cố
-Câu hỏi phát hiện khía cạnh độc đáo của ngôn ngữ nghệ thuật: từ ngữ, chi tiết, biện pháp tu từ.
- Câu hỏi về giá trị biểu đạt, hiệu quả tu từ của các thủ pháp nghệ

Tài liệu đính kèm:

  • docvan_dung_phuong_phap_tich_hop_vao_day_tac_pham_chi_pheo_cua.doc