Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy tác phẩm văn học dân gian ở chương trình Ngữ văn 10

Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy tác phẩm văn học dân gian ở chương trình Ngữ văn 10

Dạy học là một môn nghệ thuật. Nghệ thuật ấy không phải ai cũng thể nghiệm giống nhau. Định hướng “Đổi mới phương pháp dạy học” là phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học.

 Năm học 2010- 2011, Bộ GD & ĐT đã triển khai và ban hành hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức- kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thông các môn học và đưa ra một số phương pháp dạy học tích cực có thể sử dụng trong dạy học Ngữ văn THPT. Bản thân tôi cũng nhận thấy đổi mới về phương pháp dạy học luôn là vấn đề nóng hổi, đòi hỏi sự trăn trở, tìm tòi ở mỗi giáo viên để nâng cao chất lượng trong quá trình giảng dạy, tạo tâm thế tiếp nhận ở học sinh ở mức cao hơn

 Trong chương trình Ngữ văn THPT, bộ phận văn học dân gian giữ một vị trí quan trọng. Bởi văn học dân gian là lời ăn tiếng nói, điệu hồn của dân tộc, là cội nguồn văn hoá. Phát huy được sức mạnh, ưu thế đó trong học tập và giảng dạy tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường là mối quan tâm lớn với những nhà giáo tâm huyết với nghề

 Chính vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vận dung các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy tác phẩm văn học dân gian ở chương trình Ngữ văn 10” nhằm giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức, khơi gợi được niềm say mê, hứng thú học tập của các em.

 

doc 24 trang thuychi01 23632
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy tác phẩm văn học dân gian ở chương trình Ngữ văn 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN Ở CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10
Người thực hiện: Lương Thị Thuỳ An
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
 Nội dung	Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU	
1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận................................................................................................2
2. Thực trạng của vấn đề.................................................................................3
3. Giải quyết vấn đề.........................................................................................4
4. Kết quả đạt được.........................................................................................18
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.......................................................................................................20
2. Kiến nghị..................................................................................................... 20
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
	Dạy học là một môn nghệ thuật. Nghệ thuật ấy không phải ai cũng thể nghiệm giống nhau. Định hướng “Đổi mới phương pháp dạy học” là phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học.
	Năm học 2010- 2011, Bộ GD & ĐT đã triển khai và ban hành hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức- kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thông các môn học và đưa ra một số phương pháp dạy học tích cực có thể sử dụng trong dạy học Ngữ văn THPT. Bản thân tôi cũng nhận thấy đổi mới về phương pháp dạy học luôn là vấn đề nóng hổi, đòi hỏi sự trăn trở, tìm tòi ở mỗi giáo viên để nâng cao chất lượng trong quá trình giảng dạy, tạo tâm thế tiếp nhận ở học sinh ở mức cao hơn
	Trong chương trình Ngữ văn THPT, bộ phận văn học dân gian giữ một vị trí quan trọng. Bởi văn học dân gian là lời ăn tiếng nói, điệu hồn của dân tộc, là cội nguồn văn hoá. Phát huy được sức mạnh, ưu thế đó trong học tập và giảng dạy tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường là mối quan tâm lớn với những nhà giáo tâm huyết với nghề
	Chính vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vận dung các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy tác phẩm văn học dân gian ở chương trình Ngữ văn 10” nhằm giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức, khơi gợi được niềm say mê, hứng thú học tập của các em.
2. Mục đích nghiên cứu
	Đề tài này nhằm mục đích giúp học sinh rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm văn học dân gian ở từng thể loại cụ thể với những phương pháp dạy học phù hợp, nắm được đặc trưng thể loại, giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật độc đáo ở các văn bản văn học dân gian. Từ đó giáo viên khơi gợi, nuôi dưỡng niềm say mê, hứng thú của học sinh với một bộ phận văn học đã khá xa với lứa tuổi các em.
3. Đối tượng nghiên cứu
	Ở chương trình Ngữ văn 10, phần văn học dân gian đã giới thiệu nhiều thể loại phong phú và đặc sắc: sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, ca dao, truyện thơ. Có cả văn học dân gian người Kinh, văn học dân gian các dân tộc anh em và cả văn học dân gian của một số quốc gia (Hi Lạp, Ấn Độ). Đó chính là những đối tượng nghiên cứu của đề tài này
4. Phương pháp nghiên cứu 
	Trong đề tài này, tôi có sử dụng một số phương pháp:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
	“Folklore (trong nghĩa rộng: văn hoá truyền thống được lưu truyền, phổ biến rộng của nhân dân) là sáng tác để định hướng cho một nhóm người nào đó và được hình thành theo truyền thống của các nhóm người, các thành viên, phản ánh sự chờ đợi, niềm hi vọng của cộng đồng trong những biểu hiện tương ứng với nó về nhận thức xã hội và văn hoá. Các quy tắc, giá trị của folklore được truyền đạt qua truyền miệng, mô phỏng hoặc bằng những con đường khác. Hình thức của nó là ngôn từ, âm nhạc, vũ đạo, trò chơi, thần thoại, phong tục, nghi lễ, nghề thủ công, kiến trúc và các loại nghệ thuật khác”
(Dẫn theo B.N Puchilov, trong cuốn Folklore và văn hoá dân gian, NXB Khoa học. X.Petecbua, 1994, tr18, Bùi Mạnh Nhị dịch)
	Từ định nghĩa trên, giáo viên phải giúp học sinh hình dung được tác phẩm văn học dân gian được cấu thành bởi nhiều yếu tố: ngôn từ, âm nhạc, hoá trang, điệu bộ, vũ đạo. Điều này khác với văn học viết (chỉ có ngôn từ). Có thể nói, tác phẩm văn học viết là nghệ thuật đơn yếu tố và văn học dân gian là nghệ thuật đa yếu tố. Cho nên, khi dạy học, giáo viên cần chỉ ra cho các em một mô hình tiếp cận văn học dân gian theo phương pháp hệ thống. Mô hình đó có các bước sau:
- Tìm dị bản của tác phẩm từ đó định hướng thẩm mĩ đối với tác phẩm
- Tìm hiểu các yếu tố trong văn bản ngôn từ
- Tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản của tác phẩm
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa các yếu tố trong văn bản và ngoài văn bản
- Tổng hợp lại, tìm ra vẻ đẹp folklore, đánh giá tác phẩm
	Đặc trưng của văn học dân gian gợi mở cho giáo viên một điều quan trọng trong phương pháp dạy: phải chú ý đến tâm thức của học sinh và những khoảng cách về nhiều mặt của các em đối với thế giới văn học dân gian (thời đại, văn hoá, tâm lí, ngôn ngữ, cách cảm, cách nghĩ...). Giáo viên cần lấp đầy khoảng cách ấy. Điều đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải chủ động, linh hoạt vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của các tác phẩm văn học dân gian, ở từng thể loại cụ thể. Đây chính là những con đường chuyển tải tốt nhất tác phẩm văn học dân gian đến học sinh trong nhà trường THPT.
2. Thực trạng vấn đề
	Văn học dân gian được coi là cội nguồn của văn hoá, văn học dân tộc. Nhưng bộ phận văn học này lại cách khá xa với độ tuổi và nhận thức của học sinh THPT ngày nay nên việc tiếp nhận và hiểu thấu đáo giá trị tác phẩm còn hạn chế . Mặt khác, nhiều giáo viên cũng ít chú trọng đến bộ phận văn học này, do đó giảng dạy có phần qua loa, không bám sát đặc trưng của văn học dân gian, chưa truyền lửa đến cho học sinh
	Nói đến thực trạng của việc giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường hiện nay là nói đến những khuynh hướng và các cách dạy phổ biến sau
- Một là: Đồng nhất giữa văn học dân gian và văn học viết, dạy văn học dân gian như dạy văn học viết nên đã hiện đại hoá tác phẩm, tước đi những vẻ đẹp độc đáo, đặc trưng vốn có của văn học dân gian
- Hai là: Ngược với khuynh hướng trên là khuynh hướng xoá nhoà ranh giới giữa khoa nghiên cứu văn học dân gian với các khoa học liên quan như dân tộc học, lịch sử, xã hội học, văn hoá học, phong tục học...làm cho bài dạy mất đi những thông tin thẩm mĩ mà chỉ còn lại bức tranh xã hội khô cứng. Ví dụ như: phân tích Đăm Săn lại nghiêng về tục nối dây, phân tích Truyện An Dương Vương- Mị Châu và Trọng Thuỷ để giải thích lễ hội Cổ Loa, giảng dạy Tấm Cám thì lại dẫn dắt học sinh đến thuyết luân hồi trong đạo Phật.
- Ba là: Diễn xuôi một cách khô khan, nhạt nhẽo các bài ca dao, các câu chuyện cổ tích..
	Tuy nhiên có rất nhiều thầy cô tâm huyết, họ đã dạy văn học dân gian như nó vốn có trong đời sống thực của dân gian nhưng thời lượng tiết dạy quá ít nên không chuyển tải hết được vẻ đẹp về nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm.
	Bên cạnh đó cũng là thực trạng của việc học tập văn học dân gian ở học sinh: các em ngày càng xa rời với môn văn, đặc biệt là với văn học dân gian và văn học trung đại, dẫn đến việc nhiều em xem nhẹ bộ phận văn học này, học theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa, tác phẩm chưa thực sự sống trong lòng các em.
	Từ những vấn đề trên, trong quá trình giảng dạy, tôi đã vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với từng tác phẩm văn học dân gian và hi vọng sự sẻ chia kinh nghiệm này nhận được nhiều ý kiến đóng góp để hoàn thiện hơn nữa các phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học môn ngữ văn ở nhà trường THPT.
3. Giải pháp thực hiện
3.1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
	Khâu chuẩn bị tiết dạy đầy đủ, chu đáo sẽ giúp cho giáo viên chủ động, tự tin trên lớp. Học sinh chuẩn bị bài theo sự gợi dẫn của giáo viên sẽ có được một tâm thế tốt để tiếp nhận kiến thức, có hứng thú học tập. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh sẽ làm cho tiết dạy thành công hơn.
- Với giáo viên:
+ Cần tham khảo sách báo, tài liệu tham khảo
+ Chuẩn bị đồ dùng dạy học
+ Tổ chức hoạt động nhóm
+ Phân bố thời gian hợp lí theo từng hoạt động
- Với học sinh:
+ Đọc kĩ văn bản ở nhà 
+ Tìm hiểu nội dung tác phẩm qua hệ thống câu hỏi giáo viên định hướng
	Văn học dân gian là nghệ thuật ngôn từ dân gian. Khi giải mã các văn bản ngôn từ này, chúng ta phải chú ý vào tư duy cộng đồng và cảm hứng dân gian trong văn bản đó. Ngoài ra, khi dạy tác phẩm dân gian trong chương trình, chúng ta cần lưu ý khai thác các yếu tố ngoài văn bản để giúp học sinh hiểu đúng, hiểu sâu, hiểu trọn vẹn tác phẩm.
3.2. Vận dụng các phương pháp dạy học
	Sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học trong giờ văn là một việc làm cần thiết để làm cho tiết học thành công. Bàn thân tôi trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học dân gian cũng đã thực hiện các phương pháp phù hợp:
a. Đọc tác phẩm
Bước đầu tiên đến với tác phẩm là phải đọc tác phẩm. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm để tạo ấn tượng ban đầu ở tác phẩm.
- Sử thi:
+ Đoạn trích “Chiến thắng Mtao- Mxay” (Trích Đăm Săn- sử thi Tây Nguyên)
+ Đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” (Trích Ô-đi-xê- sử thi Hi Lạp)
+ Đoạn trích “Rama buộc tội” (Trích Ra-ma-ya-na- sử thi Ấn Độ)
" Đọc phân vai. Đặc trưng của thể loại sử thi là xây dựng hình tượng người anh hùng đại diện cho sức mạnh, vẻ đẹp lí tưởng của cả cộng đồng, bộ lạc được thể hiện chủ yếu thông qua lời thoại và hành động. Vậy nên, giáo viên chú ý cho học sinh cách đọc phân vai, lời của người kể chuyện và lời thoại - của các nhân vật trực tiếp. 
- Truyền thuyết: Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thuỷ
" Đọc- kể, chú ý thể hiện thái độ, tình cảm của các nhân vật qua các câu nói tiêu biểu: tiếng thét lớn của Rùa vàng ở bờ biển, câu nói chủ quan của An Dương Vương khi quân Triệu Đà đến chân thành Cổ Loa, lời khấn của Mị Châu.Truyền thuyết được nhân dân ta sáng tạo dựa trên cốt lõi lịch sử, vì vậy khi đọc phải thể hiện được không khí lịch sử
- Truyện cổ tích: Tấm Cám
" Kết hợp đọc- kể, chú ý những câu đối thoại, những câu văn vần. Khơi gợi được không khí cổ tích
- Truyện cười: Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày
" Hình thức truyện cười ngắn gọn, tập trung thể hiện mâu thuẫn gây cười, đặc biệt ở câu cuối. Đọc- kể diễn cảm qua từng câu, lời đối thoại, giữ thái độ lạnh lùng, khách quan để tạo sự hấp dẫn, lí thú.
- Ca dao: 
+ Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa: đọc diễn cảm với giọng điệu phù hợp. Chú ý cách ngắt nhịp, các điệp từ, hô ngữ
+ Cao dao hài hước: đọc theo hình thức đối đáp nam nữ, giọng điệu hài hước
- Truyện thơ: Đọc thêm “Lời tiễn dặn” (trích “Tiễn dặn người yêu”- truyện thơ dân tộc Thái)
" Đọc với giọng điệu tha thiết, buồn rầu, xót xa
b. Phương pháp nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề đã được sử dụng từ những năm 60 của thế kỉ XX ở nước ta .M.Gorki nhận xét: “Tác phẩm văn học nào cũng có vấn đề” và nhà thơ Tố Hữu cũng nhận định: “Vấn đề của nghệ thuật chính là chủ đề, nói nôm na cho dễ hiểu chính là câu hỏi, câu hỏi của cuộc đời”. Áp dụng trong dạy học tác phẩm văn học dân gian tôi nhận thấy phương pháp nêu vấn đề đạt hiệu quả khá tốt. Hầu hết các em học sinh đều rất hứng thú học tập, không khí giờ học sôi nổi hẳn lên. Phần lớn học sinh có ý thức đọc trước tác phẩm, nắm được cốt truyện, nhân vật để có thể trình bày ý kiến riêng của mình trước những tình huống có vấn đề. Học xong tác phẩm, ấn tượng về cốt truyện, nhân vật lưu lại khá sâu đậm trong tâm trí các em. Nhiều hình tượng nhân vật đã bước ra ngoài trang sách đi vào đời sống tâm hồn của các em, trở thành những người gần gũi, thân quen như cô Tấm, An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thuỷ Mỗi tác phẩm dường như đã giúp các em trưởng thành hơn về nhận thức, nâng cao được năng lực phát hiện và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
	Với phương pháp này, tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm (8 học sinh/nhóm), các em trong nhóm sẽ trình bày ý kiến và nhóm trưởng tổng hợp, đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên tổ chức, chỉ đạo chung và hỗ trợ các nhóm khi cần thiết bằng câu hỏi gợi dẫn. Kết thúc hoạt động này, giáo viên đánh giá, nhận xét và nêu định hướng chung cho việc trả lời câu hỏi. 
Ví dụ 1: Bài “Tấm Cám”
Câu hỏi nêu vấn đề: Về hành động trả thù của Tấm, có bạn học sinh cho rằng: Cô Tấm thực ra không hiền như lâu nay chúng ta vẫn nghĩ (Quả thị thơm cô Tấm rất hiền) mà trái lại rất ghê gớm, thậm chí có phần độc ác vì hành động giết người trả thù của Tấm cũng độc ác không kém hành động giết hại Tấm của mẹ con Cám. Suy nghĩ của anh (chị ) thế nào?
Định hướng giải quyết vấn đề của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết vấn đề
- Tấm là nhân vật văn học đại diện cho cái thiện mà nhân dân lao động sáng tạo ra để thể hiện quan niệm, thái độ của mình về cuộc sống. Cái tư tưởng cốt lõi mà dân gian muốn gửi gắm đến người đọc, người nghe là: “thiện luôn thắng ác”, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”. Với suy nghĩ như thế, dân gian không cho rằng hành động của Tấm là độc ác, thậm chí là cần thiết đối với Cám tức là kẻ ác cần bị trừng trị đích đáng.
- Hiền không đồng nghĩa với nhút nhát, sợ hãi, nhường nhịn hay là chịu khuất phục trước cái ác, cái xấu. Trong quan niệm của dân gian là “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. 
- Học sinh có cơ hội củng cố và tích hợp kiến thức vì cần phải huy động những kiến thức về tác phẩm, về thể loại truyện cổ tích, về tư tưởng của dân gian mới có thể lí giải được vấn đề.
- Các em được tự bộc lộ suy nghĩ riêng của bản thân, được đặt mình vào vị trí của Tấm, của tác giả dân gian để lí giải hành động của Tấm. Từ đó, hiểu được nội dung tư tưởng của tác phẩm mà tác giả dân gian muốn gửi gắm qua nhân vật.
- Học sinh hiểu sâu hơn những triết lí sống của dân gian và rút ra cho mình những bài học bổ ích về cách ứng xử trong cuộc sống “gieo gió gặt bão”, “nhân nào quả ấy”, “ác giả ác báo”, “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”
Ví dụ 2: Truyện “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” 
Câu hỏi nêu vấn đề: Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống Thủy cung, Trọng Thủy đã tìm gặp lại Mị Châu. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó.
( Đề bài làm văn số 2)
Định hướng giải quyết vấn đề của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết vấn đề
Có thể kể và kết thúc theo nhiều cách khác nhau miễn là bài viết có tính thuyết phục và phù hợp với ý đồ nghệ thuật của tác giả dân gian:
- Gặp lại Trọng Thủy dưới thủy cung , Mị Châu nặng lời phê phán rồi quay đi, bỏ mặc Trọng Thủy đầu tóc bơ phờ, nét mặt đau khổ, dáng hình mờ dần và tan trong dòng nước xanh.
- Mị Châu bình tĩnh phân tích mọi lẽ đúng, sai lúc hai người còn sống. Hiểu lời Mị Châu, Trọng Thủy rất ân hận, muốn nối lại duyên xưa. Tuy cảm động trước thái độ ấy của Trọng Thủy nhưng Mị Châu không chấp nhận. Nàng tỏ ý muốn “đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì” 
- Học sinh được rèn luyện kĩ năng làm văn tự sự, được nhập vai đồng sáng tạo với tác giả.
- Học sinh hiểu sâu sắc hơn giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm đặc biệt là đặc điểm của thể loại truyền thuyết. 
- Qua bài văn tự sự của mình các em cũng đã bày tỏ nhiều quan niệm sống hay như: phải biết khát vọng nhưng không nên tham vọng, phải biết thông cảm và tha thứ
c. Phương pháp so sánh	
	Bản chất của nghệ thuật là sự sáng tạo. Tuy nhiên, giữa các tác phẩm văn học ở các thể loại khác nhau, các thời kì văn học và cả ở những quốc gia trên thế giới vẫn có những điểm gặp gỡ về tư tưởng, tình cảm. Mục đích sử dụng phương pháp so sánh là để giáo viên giúp học sinh thấy được sự gần gũi trong sự việc nhưng khác về đề tài, kết cấu, loại hình nhân vật, các thể hiện trong tác phẩm.
Ví dụ 1: Đoạn trích “Ra-ma buộc tội” (Trích Ra-ma-ya-na- sử thi Ấn Độ)
?) Có điểm gì gần gũi và khác biệt giữa Vũ Nương (Người con gái Nam Xương- Nguyễn Dữ) và nàng Xi-ta (Ra-ma buộc tội)
+ Giống nhau: Cùng bị oan ức, chồng nghi ngờ, ghen tuông thất tiết, cùng tìm đến cái chết để thanh minh sự trong trắng của mình và đã được thanh minh
+ Khác nhau:
Xi- ta
Vũ Nương
- Ra-ma ruồng rẫy vợ vì danh dự của nhà vua- người anh hùng
- Tìm cách minh oan bằng cách bước lên giàn thiêu" Vai trò của thần lửa trong văn hoá Ấn Độ
-Nhân vật trong sử thi cổ đại "Cách kể chuyện chậm, nhiều đối thoại tỉ mỉ, nhiều hình ảnh
- Tính chất lí tưởng hoá trong nghệ thuật xây dựng nhân vật: kết tinh sức mạnh, ý chí, khát vọng đạo đức của cả cộng đồng
- Trương Sinh ruồng rẫy vợ vì thói ghen tuông tầm thường
- Thanh minh bằng cách nhảy xuống sông" Việt Nam là một nước văn minh nông nghiệp lúa nước, nhiều sông ngòi.
- Nhân vật trong truyện truyền kì trung đại "Cách kể nhanh, ít đối thoại.
- Sự cảm thương đối với số phận oan nghiệt, cái chết thương tâm của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
Ví dụ 2: Truyện cổ tích “Tấm Cám” 
	Truyện Tấm Cám nằm trong một kiểu truyện thuộc loại phổ biến nhất trên thế giới. Cô Tấm trong truyện của nhiều nước phương Tây có tên là cô Tro Bếp (Cendrilon ở Pháp, Cinderella ở Anh, Cenerentola ở Ý hay Doluska ở Nga). Về hình mẫu nhân vật và các tình tiết cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, do đặc trưng văn hoá nên có những chi tiết khác biệt. Cô Tấm trong truyện cổ tích Việt Nam là một người con gái thuần Việt với những công việc đồng áng, lời ăn tiếng nói, dung mạo ngoại hình. Hình ảnh cái yếm đỏ, con cá bống, con gà, chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, miếng trầu là những hình ảnh xuất hiện nhiều trong văn hoá Việt. Ngoài ra, riêng ở Việt Nam cũng có những dị bản khác nhau của truyện Tấm Cám
	Khi giáo viên giảng dạy các tác phẩm văn học dân gian nên lưu ý đến tính dị bản để học sinh thấy được sự phong phú đa dạng trong sức sáng tạo của tập thể nhân dân lao động.
d. Phương pháp giảng dạy theo đặc trưng thể loại
	Văn học dân gian có bao nhiêu thể loại thì có bấy nhiêu hệ thống thi pháp. Mỗi thể loại có những đặc điểm riêng. Vì thế dạy văn học dân gian không thể giống và đồng nhất với thi pháp văn học viết. Dạy sử thi là phải bám sát vào đặc điểm thi pháp của sử thi như tính chất anh hùng ca, âm điệu hào hùng, ngôn ngữ có tính trang trọng với nhiều hình ảnh so sánh, phóng đại, nhân vật là người anh hùng đại diện cho sức mạnh, ý chí nguyện vọng của cộng đồng. Dạy truyện cổ tích là phải nắm được kết cấu cốt truyện, là tính chất hư cấu tưởng tượng của tác phẩm, là mô típ nhân vật, mô típ tình tiết, là kiểu kết thúc có hậu. 
	Trước hết người dạy cần bám sát văn bản ngôn từ với những đặc trưng của nó như tính lặp đi lặp lại trở thành mô típ, biểu tượng nghệ thuật, cách phô diễn dân gian, kết cấu, nhân vật, thời gian và không gian nghệ thuật, ngôn ngữ làm cơ sở để phân tích tác phẩm, tìm ra những thông tin thẩm mĩ ẩn chứa trong đó. Tuy nhiên văn bản ngôn từ văn học dân gian cũng có nét riêng đó là tính dị bản, là tư duy cộng đồng, là cảm hứng dân gian. Điều đó giải thích vì sao truyện cổ tích thường có cốt truyện, kết cấu giống nhau, với những kiểu nhân vật như người mồ côi, người con riêng, người em út, người đi ở, người có hình dạng xấu xí- những con người này lúc đầu gặp khó khăn nhưng được sự giúp đỡ của các yếu tố thần kì cuối cùng đã chiến thắng và hưởng hạnh phúc. Trong ca dao lặp đi lặp lại những mô thức mở đầu: Thân em nhưChiều chiềuTrèo lên câyĐêm quaNgười dạy cần nắm được những đặc trưng này thì mới có thể khai thác được cái hay cái đẹp của văn học dân gian, đưa người học vào thế giới đậm màu sắc dân gian đó.
	Ví dụ như lối kể chuyện theo kiểu “ngày xửa ngày xưa”, những câu văn vần xen kẽ trong các câu chuyện cổ tích “Bống bống bang bangVàng ảnh vàng anh.Kẽo ca kẽo kẹt”.Đó là s

Tài liệu đính kèm:

  • docvan_dung_cac_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_trong_giang_day_ta.doc