Sử dụng một số dạng bài tập hoá học để phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh tại trường THPT Tĩnh Gia 4

Sử dụng một số dạng bài tập hoá học để phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh tại trường THPT Tĩnh Gia 4

 Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với cộng đồng quốc tế. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục là trọng tâm của sự phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là con người.

 Nghị quyết trung ương 4 khóa XII đã xác định: phải khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.

 Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phát triển tư duy cho học sinh ở mọi bộ môn, trong đó có bộ môn hoá học. Hoá học là môn khoa học thực nghiệm và lý thuyết, vì thế bên cạnh việc nắm vững lý thuyết, người học cần phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi vấn đề thông qua hoạt động thực nghiệm, thực hành giải bài tập.

 Bài tập hoá học là phương tiện cơ bản để dạy học sinh tập vận dụng kiến thức hoá học vào thực tế đời sống, sản xuất và tập nghiên cứu khoa học. Kiến thức học sinh tiếp thu được chỉ có ích khi sử dụng nó. Bài tập hoá học là một trong những phương tiện có hiệu quả để giảng dạy môn hoá ở trường THPT, tăng cường định hướng tư duy sáng tạo của học sinh.

 

doc 20 trang thuychi01 5420
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng một số dạng bài tập hoá học để phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh tại trường THPT Tĩnh Gia 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
1. Mở đầu...
1.1. Lí do chon đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu..
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Đối tượng nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới.
1
1
1
1
1
2
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm..
2
2.1. Cơ sở lí luận...
2
2.2. Thực trạng..
2
2.3. Giải pháp
3
2.4. Hiệu quả.
18
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận..
3.2. Kiến nghị
19
19
19
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
 Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với cộng đồng quốc tế. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục là trọng tâm của sự phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là con người. 
 Nghị quyết trung ương 4 khóa XII đã xác định: phải khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
 Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phát triển tư duy cho học sinh ở mọi bộ môn, trong đó có bộ môn hoá học. Hoá học là môn khoa học thực nghiệm và lý thuyết, vì thế bên cạnh việc nắm vững lý thuyết, người học cần phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi vấn đề thông qua hoạt động thực nghiệm, thực hành giải bài tập. 
 Bài tập hoá học là phương tiện cơ bản để dạy học sinh tập vận dụng kiến thức hoá học vào thực tế đời sống, sản xuất và tập nghiên cứu khoa học. Kiến thức học sinh tiếp thu được chỉ có ích khi sử dụng nó. Bài tập hoá học là một trong những phương tiện có hiệu quả để giảng dạy môn hoá ở trường THPT, tăng cường định hướng tư duy sáng tạo của học sinh.
 1.2. Mục đích nghiên cứu 
 Ở bất cứ công đoạn nào của quá tình dạy học đều có thể sử dụng bài tập. Khi dạy học bài mới có thể dùng bài tập vào bài, để tạo tình huống có vấn đề, để chuyển tiếp từ phần này sang phần kia, để củng cố bài, hướng dẫn học sinh học ở nhà. Đặc biệt khi ôn tập, củng cố, luyện tập và kiểm tra - đánh giá thì việc sử dụng bài tập là một trong các phương pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đối với học sinh giải bài tập là một phương pháp học tập tích cực. Thông qua việc giải bài tập giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, năng lực phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và năng lực tư duy logic, biện chứng, khái quát, độc lập, thông minh và sáng tạo và còn nhiều đức tính cần thiết khác. Bên cạnh đó nhiều bài tập hoá học còn rèn luyện cho học sinh nhiều kĩ năng cần thiết như kĩ năng thực hành thí nghiệm hoá học như lắp ráp thí nghiệm, quan sát và giải thích hiện tượng.
 Từ thực tiễn trên để giúp cho công việc giảng dạy đạt hiệu quả tốt hơn và phát huy được tính tích cực của học sinh thì việc xây dựng và sử dụng các bài tập là rất cần thiết cho học sinh THPT Tĩnh Gia 4. Vì vậy với những lý do ở trên và để giúp các em tiếp cận và học tốt môn hoá học tôi đã chọn đề tài sau
“ Sử dụng một số dạng bài tập hoá học để phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh tại trường THPT Tĩnh Gia 4”
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm là học sinh lớp 12 (gồm các lớp 12C1, 12C3, 12C5, 12C6) trường THPT Tĩnh Gia 4 năm học 2016 – 2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
 Đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp giúp cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những tình huống gặp phải trong học tập.
- Phương pháp động não. 
 Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một sự tình nào đó.
1.5. Những điểm mới của SKKN
- Cập nhật đề thi thử các trường trong cả nước và đề thi minh họa của bộ GD-ĐT năm 2016-2017
- Đưa hai dạng câu hỏi có xu hướng đưa vào đề thi THPT quốc gia đó là:
+ Câu hỏi về hóa học thực tiễn ( hóa học về môi trường và giải thích các hiện tượng trong đời sống ) 
+ Câu hỏi về sử dụng sơ đồ thí nghiệm 
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
 Bài tập hoá học hiện nay đang không ngừng được bổ sung cả về số lượng và chất lượng nhiều bài tập có nội dung hay và có tác dụng tốt. Để rèn cho học sinh cách tư duy sáng tạo sao cho có thể tìm ra đáp án của bài toán đó một cách nhanh nhất và thuận lợi nhất, chúng ta có thể lựa chọn nhiều bài tập mà ngoài cách giải thông thường, còn có cách giải nhanh nhất mất ít thời gian hơn để thông qua việc tìm tòi cách giải sẽ có tác dụng phát triển tư duy cho học sinh. Mặt khác với hình thức thi trắc nghiệm hiện nay - là cuộc chạy đua về thời gian đòi hỏi học sinh phải có một tốc độ tư duy cao để giải bài tập thông minh nhất. Do vậy các thầy cô giáo cần nghiên cứu bổ xung, đổi mới làm cho hệ thống bài tập hóa học ngày càng phong phú, sắc bén và chính xác hơn. Đó chính là công cụ giúp giáo viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giảng dạy của mình đồng thơi cũng nâng cao chất lượng dạy và học tại trường THPT Tĩnh Gia 4 tạo điều kiện để các em “phát triển năng lực tư duy sáng tạo” giúp các em ngày càng hoàn thiện bản thân theo tiêu chí “đức, trí, thể, mĩ” của một học sinh THPT.
2.2. Thực trạng vấn đề
 Những buổi đầu tôi tiếp xúc với học sinh lớp 12C1, 12C3, 12C5, 12C6 nhận thấy các em còn rất yếu về tư duy sáng tạo bộ môn học nói riêng cũng như các bộ môn học khác nói chung. Chính vì thế tôi đã tiến hành khảo sát các em xem chất lượng bộ môn học như thế nào để điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. 
Kết quả thống kê:
Lớp
SL
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12C1
38
0
0
7
18,4
21
55,3
10
26,3
12C3
42
0
0
6
14,3
24
57,1
12
28,6
12C5
41
0
0
4
9,8
23
56,1
14
34,1
12C6
43
0
0
5
11,6
22
51,2
16
37,2
 Dựa vào kết quả thống kê trên tôi thấy số lượng học sinh yếu chiếm tỉ lệ rất cao con tỉ lệ học sinh giỏi môn này hầu như không có ở tất cả 4 lớp tôi dạy thời điểm khảo sát đầu năm học 2016 - 2017 chính vì thế tôi quyết định áp dụng phương pháp này vào giảng dạy cho học sinh THPT Tĩnh Gia 4 trong năm học 2016 - 2017. Nhằm nâng cao năng lực tư duy và sáng tạo đồng thơi nâng cao chất lượng giáo dục môn học đạt kết quả cao hơn. 
2.3. Giải pháp
2.3.1. Tư duy, sáng tạo
 a. Điều kiện để có tư duy, sáng tạo
- Kiến thức: Sáng tạo là vận động từ cái cũ đến cái mới, nên tư duy phải linh hoạt, mềm dẻo trên cơ sở thông hiểu sâu sắc bản chất của các khái niệm, định luật, các qui luật tương tác giữa các chất và các quá trình hóa học, chứ không hiểu một cách hình thức (hiểu hình thức thì tư duy rất cứng nhắc không linh hoạt được).
- Phương pháp khoa học: Phải có năng lực độc lập trong tư duy và trong hành động. Tính linh hoạt và sáng tạo của tư duy liên quan mật thiết với độc lập của tư duy. Độc lập ở trình độ cao dẫn đến sáng tạo, độc lập là tiền đề cho sáng tạo.
 b. Phát triển tư duy hóa học cho học sinh
 Việc phát triển tư duy cho học sinh trước hết là giúp cho học sinh nắm vững kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào việc giải bài tập và thực hành qua đó mà kiến thức học sinh thu nhận được trở nên vững chắc và sinh động hơn. Học sinh chỉ thực sự lĩnh hội được tri thức khi tư duy của họ được phát triển và nhờ sự hướng dẫn của giáo viên mà học sinh biết phân tích, khái quát tài liệu có nội dung sự kiện cụ thể và rút ra những kết luận cần thiết.
Tư duy càng phát triển thì càng có nhiều khả năng lĩnh hội tri thức một cách nhanh chóng, sâu sắc và khả năng vận dụng tri thức càng linh hoạt, có hiệu quả hơn. Như vậy sự phát triển tư duy của học sinh được diễn ra trong quá trình tiếp thu và vận dụng tri thức. Do đó hoạt động giảng dạy cần phải tập luyện cho học sinh khả năng tư duy sáng tạo qua các khâu của quá trình dạy học
2.3.2. Bài tập hóa học
 a. Khái niệm về bài tập hóa học
 Là phương tiện để dạy học sinh tập vận dụng kiến thức, tăng cường và định hướng hoạt động tư duy của học sinh.
 b. Rèn luyện tư duy, sáng tạo cho học sinh thông qua các bài tập hóa học
 Môn hóa học là môn khoa học tự nhiên chứa đựng nhiều vấn đề hay và khó, nó không đơn thuần chỉ nghiên cứu lí thuyết mà luôn luôn gắn liền thực tiễn, được chứng minh bằng thực nghiệm. Do vậy môn hóa học góp phần bồi dưỡng cho người học năng lực tư duy độc lập sáng tạo ngay trong thực tế. Để làm được điều này, bản thân người giáo viên phải soạn được một hệ thống bài tập chứa đựng các yếu tố tư duy chứ không phải tái hiện kiến thức thuần túy. Mỗi bài tập đưa ra đòi hỏi học sinh phải vận dụng các thao tác tư duy để giải quyết, đặc biệt các tình huống “ có vấn đề” có ý nghĩa quan trọng. Bên cạnh hệ thống bài tập có chất lượng không thể thiếu phương pháp giải hiệu quả. Muốn học sinh phát triển tư duy, rèn trí trông minh thì ngay từ đầu phải xây dựng, cung cấp cho các em các công cụ giải toán hóa học cơ bản mà từ đó học sinh vân dụng trong từng trường hợp cụ thể khác nhau.
 c. Một số tác dụng của bài tập hóa học có phương pháp giải nhanh
 + Giúp học sinh làm quen với việc giải nhanh các bài tập trong các kì thi.
 + Rèn khả năng suy luận nhanh, hệ thống hóa kiến thức, cách nhìn nhận xem xét giải quyết vấn đề theo nhiều cách và lựa chọn cách tốt nhất.
 + Giúp học sinh rèn luyện sự nhạy bén với các tình huống, làm quen với việc giải quyết nhanh gọn, là đức tính cần có với con người trong thời đại mới
2.3.3. Mối quan hệ giữa bài tập hóa học và rèn luyện tư duy sáng tạo
So sánh
Trí nhớ
Bài tập hóa học
Trừu tượng
Giải
Cách giải
Kiểm tra
Hoạt động giải bài tập hóa học
Nghiên cứu đề
Quan sát 
Phê phán
Khái quát
Tư duy phát triển
Tổng hợp
2.3.4. Vận dụng
 a. Dạy học sinh các kiến thức cơ bản để giải nhanh một bài toán.
 Giáo viên dạy cho học sinh vận dụng các định luật 
 + Định luật bảo toàn khối lượng 
 + Định luật bảo toàn điện tích 
 + Bảo toàn electron
 + Phương pháp tăng giảm khối lượng 
 + Phương pháp trung bình 
Vào việc giải các bài toán hoá học
 b. Lựa chọn các bài tập 
 Bài tập hoá học hiện nay đang không ngừng được bổ sung cả về số lượng và chất lượng nhiều bài tập có nội dung hay và có tác dụng tốt. Để rèn cho học sinh cách tư duy sáng tạo sao cho có thể tìm ra đáp án của bài toán đó một cách nhanh nhất và thuận lợi nhất, chúng ta có thể lựa chọn nhiều bài tập mà ngoài cách giải thông thường, còn có cách giải nhanh nhất mất ít thời gian hơn để thông qua việc tìm tòi cách giải sẽ có tác dụng phát triển tư duy cho học sinh. Để xây dựng các bài tập hóa học rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo dựa vào các dạng bài tập sau.
Dạng 1: Bài tập để rèn luyện cho học sinh cách tư duy logic.
 Để rèn luyện cho học sinh cách tư duy logic chúng ta có thể dạy cho học sinh cách làm việc như một nhà khoa học. Đó là cách phát hiện ra vấn đề, tìm cách lí luận dựa trên nhứng kiến thức đã học để có thể giải quyết vấn đề đặt ra một cách đơn giản và thuận lợi hơn.
Ví dụ 1: Cho 24,4 gam hỗn hợp Na2CO3, K2CO3 tác dụng vừa đủ với dung dịch BaCl2. Sau phản ứng thu được 39,4 gam kết tủa. Lọc tác kết tủa, cô cạn dung dịch thu được m gam muối clo. Vậy m có giá trị là:
 A. 2,66 g B. 22,6 g C. 26,6 g D. 6,26 g
 ( Trích phương pháp giải nhanh trắc nghiệm hóa vô cơ – Phạm Đức Bình, ThS.Lê Thị Tam, NXB Đại học sư phạm, 2010, trang 24 ) 
Cách giải thông thường: Các em tiến hành viết PTHH, đặt ẩn số tính khối lượng của từng muối sau đó tính tổng khối lượng.
PTHH: Na2CO3 + BaCl2 BaCO3 + 2NaCl ( 1) 
 x x 2x
 K2CO3 + BaCl2 BaCO3 + 2KCl ( 2)
 y y 2y 
 Đặt số mol Na2CO3 là x, K2CO3 là y.
Số mol nBaCO3 = = 0,2 mol
Theo bài ra ta có hệ phương trình: 
 Khối lượng muối tạo thành trong dung dịch là: 
 mmuối  = 0,1 x 2 x 58,5 + 0,1 x 2 x 74,5 = 26,6 gam. 
=> Đáp án ( C )
Để giải bài tập này một cách ngắn gọn hơn ta có thể dạy học sinh áp dụng định luật bảo toàn khối lượng như sau:
 Muối cacbonat + BaCl2 BaCO3 + muối clorua
Nhận thấy : số mol bariclorua = số mol kết tủa.
Khối lượng muối clorua: mmuối = mhh + mBaCl2 - mBaCO3
Học sinh vận dụng để giải quyết vấn đề:
 nBaCl2 = nBaCO3 = 0,2 mol
 m = mmuối = mhh + mBaCl2 - mBaCO3 = 24,4 + 0,2 x 208 – 39,4 = 26,6( g)
Ví dụ 2: Hòa tan hoàn toàn 23,8 gam hỗn hợp gồm một muối cacbonat của kim loại hoá trị I và một muối cacbonat hoá trị II vào dung dịch HCl thu được 0,2 mol khí CO2. Cô cạn dung dịch thu được m gam muối là.
 A. 24 g B 62 g C. 23,5 g D. 26 g 
 ( Trích phương pháp giải nhanh trắc nghiệm hóa vô cơ – Phạm Đức Bình, ThS.Lê Thị Tam, NXB Đại học sư phạm, 2010, trang 28 ) 
Giải: Đặt công thức các muối là M2CO3 và RCO3
M2CO3 + RCO3 + 4HCl 2MCl + RCl2 + 2CO2 + 2H2O
 0,4 mol 0,2 0.2 mol
Theo định luật bảo toàn khối lượng: 
 23,8 + 0,4 x 36,5 = mmuối + 0,2 x 44 + 0,2 x 18
 m muối = 26 g 
 Đáp án D
Ví dụ 3: Hòa tan hoàn toàn 2,43 gam hỗn hợp gồm Mg và Zn vào một lượng vừa đủ dung dịch H2SO4 loãng, sau phản ứng thu được 1,12 lít H2 (đktc) và dung dịch X. Khối lượng muối trong dung dịch X là
 	A. 5,83 gam.	B. 7,33 gam.	C. 4,83 gam.	D. 7,23 gam.
 ( Trích đề thi tuyển sinh đại học và cao đẳng năm 2012 )
 Cách giải thông thường: Số mol H2 = = 0,05 mol
Gọi số mol của Mg là x, Zn là y
 PTHH: Mg + H2SO4 MgSO4 + H2 
 x x x 
 Zn + H2SO4 ZnSO4 + H2 
 y y y 
Lập phương trình về khối lượng của hai kim loại, l ập phương trình về số mol H2 
Ta có hệ phương trình: 
Khối lượng muối trong dung dịch là: 
 mmuối = 0,02 x 120 + 0,03 x 161= 7,23 (g) 
=> Đáp án D.
Để giải bài này ngắn gọn hơn và nhanh hơn ta có thể hướng dẫn học sinh phát hiện ra vấn đề như sau: 
 2M +n H2SO4 M2(SO4)n + nH2
Nhận xét: 
 số mol gốc sunfat = số mol axitssunfuric = số mol H2
Khối lượng muối: 
 mmuối= mkiml loại + mgốc axit
Học sinh vận dụng để giải quyết vấn đề: 
 ngốc sunfat = số mol H2 = 0,05 mol
Khối lượng muối thu được: 
 mmuối= mkiml loại + mgốc axit = 2,43 + 0,05 x 96 = 7,23 gam.
Ví dụ 4: Hoà tan hợp kim Cu, Mg, Al bằng một lượng vứa đủ dung dịch HCl thu được 7,84 lít khí X (đktc) và 2,54 gam chất rắn Y và dung dịch Z. Cô cạn dung dịch Z thu được m ( g) muối, m có giá trị là
A. 31,45 g B. 33,25 g C. 3,99 g D. 35,58 g
 ( Trích phương pháp giải nhanh trắc nghiệm hóa vô cơ – Phạm Đức Bình, ThS.Lê Thị Tam, NXB Đại học sư phạm, 2010, trang 34 ) 
Giải: Số mol gốc clorua = 2 lần số mol H2 = 2 x = 0,7 mol
Khối lượng muối thu được là:
Mmuối = mkl(Ai,Mg) + mCl- = ( 9,14 -2,54) + 0,7 x 35,5 = 6,6 + 24,85 = 31,45(g) 
=> Đáp án A .
Ví dụ 5: Cho 2,13 gam hốn hợp X gồm 3 kim loại là Mg, Cu và Al ở dạng bột tác dụng hoàn toàn với oxi, thu được hốn hợp Y gốm các oxit có khối lượng 3,33 gam. Tính thể tích dung dịch HCl 2M vừa đủ để phản ứng hết với Y là: 
A. 50 ml B. 57 ml C. 75 ml D. 90 ml
 ( Trích phương pháp giải nhanh trắc nghiệm hóa vô cơ – Phạm Đức Bình, ThS.Lê Thị Tam, NXB Đại học sư phạm, 2010, trang 32 ) 
Cách giải thông thường: 
Gọi số mol các chất Mg, Cu, Al lần lượt là: x, y,z.
Ta có PTHH: 2Mg + O2 2MgO 
 x mol x mol
 2Cu + O2 2CuO 
 y mol y mol
 4Al + 3 O2 2Al2O3 
 z mol z mol
 MgO + 2HCl MgCl2 + H2O
 x 2x
 CuO + 2HCl CuCl2 + H2O
 y 2y
 Al2O3 + 6HCl 2AlCl3 + 3H2O
 z 3z
Lập phương trình về khối lượng của hỗn hợp kim loại: 
 24x + 64y + 27z = 2,13
Lập phương trình về khối lượng oxit: 
 40x + 80y + 102z = 3,33
Tìm được x, y, z ta mới tính được số mol axit HCl, nhưng với việc làm này rất khó khăn và chỉ có 2 phương trinh mà 3 ẩn số.
Cách phát hiện vấn đề: 
 4M + nO2 2 M2On
 M2On + 2n HCl 2MCln + nH2O
Thực chất của phản ứng kim loại tác dụng với oxi tạo oxit sau đó oxit tác dụng với axit thì thực chất ion H+ lấy oxi từ oxit tạo thành nước: 
 O2-( oxit) + 2H+ H2O. 
Ta có nH+ = 2nO
Giải: Khối lượng oxi có trong oxit là 
 mO= moxit – mkl = 3,33 – 2,13 = 1,2 gam => nO = =0,075 mol. 
 nHCl = nH+ = 2nO = 2 x 0,075 = 0,15 mol
 VHCl = = = 0,075 ( lít) = 75 ml 
 Đáp án C
Bài tập áp dụng:
1. Nung 2,23 gam hỗn hợp X gồm các kim loại Fe, Al, Zn, Mg trong oxi, sau một thời gian thu được 2,71 gam hỗn hợp Y. Hòa tan hoàn toàn Y vào dung dịch HNO3 (dư), thu được 0,672 lít khí NO (sản phẩm khử duy nhất, ở đktc). Số mol HNO3 đã phản ứng là
	A. 0,12	B. 0,14	C. 0,16	D. 0,18
 ( Trích đề thi tuyển sinh đại học và cao đẳng năm 2013 )
Giải: Ta có: nHNO3 = 2nO (oxit) + 4nNO = x 2 + 4 x = 0,18 mol
=> Đáp án D
2. Đốt cháy hoàn toàn một lượng hỗn hợp X gồm 2 ancol (đều no, đa chức, mạch hở, có cùng số nhóm -OH) cần vừa đủ V lít khí O2, thu được 11,2 lít khí CO2 va 12,6 gam H2O (các thể tích khí đo ở đktc). Giá trị của V là
	A. 14,56	B. 15,68	C. 11,20	D. 4,48
 ( Trích hướng dẫn giải nhanh trắc nghiệm hóa học hữu cơ – Đỗ Xuân Hưng, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2008, trang 151 ) 
Giải: nH2O = = 0,7 mol, nCO2 = = 0,5 mol
 nancol = nH2O – nCO2 = 0,2 mol. 
Số nguyên tử CTB = nCO2 : n ancol = 2,5 Þ một ancol là C2H4(OH)2 . 
Áp dụng định luật bảo toàn nguyên tố oxi : 
 nO2 = ( 2 nCO2 + nH2O - 2nancol) 
 nO2 = (2. 0,5 + 0,7 – 0,2.2) = 0,65 mol Þ V = 14,56 lít
=> Đáp án A
3. Thổi một luồng khí CO dư đi qua ống nghiệm đựng hỗn hợp m gam hai oxit Fe3O4 và CuO nung nóng đến khi phản ứng hoàn toàn thu được 2,32 g hỗn hợp kim loại. Khí thoát ra được đưa vào bình đựng dung dịch Ca(OH)2 dư thấy có 5 gam kết tủa trắng. Khối lượng hỗn hợp hai oxít là
 A. 3,12 g B. 3,21g C. 4 g D. 4,2 g
 ( Trích phương pháp giải nhanh trắc nghiệm hóa vô cơ – Phạm Đức Bình, ThS.Lê Thị Tam, NXB Đại học sư phạm, 2010, trang 33 ) 
Nhận xét: Bài toán khử oxit kim loại bằng các chất khử CO( H2) thì CO( H2) chiếm oxi của oxit kim loại ra khỏi oxit. Mỗi phân tử CO( H2) chỉ chiếm được 1 mol O ra khỏi oxit.
Khi đó : nO (Oxit) = nCO=nCO2 
 m0xit = mkl + mO
 Học sinh giải quyết vấn đề như sau:
 nO (Oxit) = nCO=nCO2 = nCaCO3 = = 0,05 mol
 m0xit = mkl + mO = 2,32 + 16 x 0,05 = 3,12 gam
 Đáp án : A
4. Đốt cháy hoàn toàn m( g) hỗn hợp X gồm CH4, C3H6 và C4H10 thu được 4,4 gam CO2 và 2,52 gam H2O. Giá trị của m là
 A. 1,48g B. 2,48g C.14,8 g D. 24,7 g
 ( Trích hướng dẫn giải nhanh trắc nghiệm hóa học hữu cơ – Đỗ Xuân Hưng, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2008, trang 11 ) 
Giải: nCO2 = = 0,1 mol, n H2O = = 0,14 mol
Áp dụng định luật bảo toàn nguyên tố: mX = mC + mH
mX = 0,1 x 12 + 0,1 x 2 x 1=1,48 gam 
=> Đáp án A
Dạng 2: Sử dụng bài tập thực tiễn
 Hoá học là bộ môn khoa học thực nghiệm do đó dạy và học hóa học không chỉ dừng lại ở khả năng truyền đạt và lĩnh hội kiến thức. Hóa học là một môn khoa học vừa lí thuyết vừa thực nghiệm với nhiều kiến thức trừu tượng và được ứng dụng rộng rãi trong đời sống mà sử dụng bài tập hoá học để phát triển năng lực tu duy sáng tạo cho học sinh THPT, phải biết dạy các em học hoá học còn được ứng dụng thực tế rất nhiều. Giúp các em có thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
 Hiện nay bài tập về thực tiễn còn ít vậy cũng ít được sử dụng. Đây là bài tập mang tính thực tiễn, ứng dụng vào đời sống hàng ngày gắn liền với kiến thức các em đã học.
 Sau đây là một số ví dụ
 Ví dụ 1: Axit fomic co trong nọc kiến. Khi bị kiến cắn, nên chon cách nào sau đây bôi vào vết thương để giảm sưng tấy
 A. Vôi tôi B. Giấm ăn C. Nước D. Muối ăn 
 ( Trích đề thi THPT quốc gia năm 2016 )
 Nhận xét: Để giải bài tập này đòi hỏi học sinh hiểu và có kĩ năng suy luận tại sao lại bôi vôi tôi. Và vôi tôi có tính kiềm vậy dùng để trung hoà axit. 
 Giải thích: Để giải thích cách làm đó, các em cần biết khi ong, muỗi, kiến đốt chúng tiết ra một chất hoá học đó là axit fomic( HCOOH). Chất này làm cho chúng ta bị ngứa và nhức. Khi bôi vôi tôi Ca(OH)2 lên chỗ da bị đốt, Ca(OH)2 sẽ tác dụng với axit fomic ( HCOOH) theo phương trình hoá học
 2HCOOH + Ca(OH)2 (HCOO)2Ca + 2H2O
 Phản ứng xảy ra làm lượng axit fomic bị trung hoà hết. Khi đó ta sẽ không còn ngứa và nhức nữa. 
=> Đáp án A
Ví dụ 2: Hãy giải thích tại sao những bức tranh cổ ( vẽ bằng bột chì, thành phần chính là muối bazơ 2PbCO3.Pb(OH)2 thường có màu đen? Tại sao có thể dùng H2O2 có thể phục hồi bức tranh cổ này?
( Sưu tầm trên Internet )
 Giải thích: Những bức tranh cổ vẽ bằng bột chì thành phần chính là muối bazơ
 2 PbCO3.Pb(OH)2. Khi để lâu bột chì tác dụng lên H2S trong không khí tạo thành PbS màu đen.
 2 PbCO3.Pb(OH)2 + 3H2S 3PbS + 2CO2 + 4H2O
Có thể dùng H2O2 để phục hồi nhữ

Tài liệu đính kèm:

  • docsu_dung_mot_so_dang_bai_tap_hoa_hoc_de_phat_trien_nang_luc_t.doc
  • docbia skkn - Tâm.doc