SKKN Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi phần hợp chất có nhóm chức Hóa học 11 THPT

SKKN Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi phần hợp chất có nhóm chức Hóa học 11 THPT

 Hằng năm, chúng ta luôn tổ chức các cuộc thi học sinh giỏi (HSG) môn hoá học để phát hiện những em có năng khiếu nên việc tổng kết, đúc rút kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học là rất cần thiết và mang tính thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

 Trong giảng dạy cũng như trong bồi dưỡng HSG, bài tập tổng hợp hữu cơ có vị trí hết sức quan trọng. Nó không những góp phần giúp học sinh hiểu rõ về lý thuyết hoá hữu cơ, về thực tế tổng hợp và sản xuất các chất hữu cơ mà hơn hết là khi giải loại bài tập này

 Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng hệ thống bài tập BDHSG phần hợp chất có nhóm chức Hóa Học 11 THPT”.

 

doc 23 trang thuychi01 9892
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng hệ thống bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi phần hợp chất có nhóm chức Hóa học 11 THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NGA SƠN
XÂY DỰNG, TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG HỆ
 THỐNG BÀI TẬP BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI PHẦN HỢP CHẤT CÓ NHÓM CHỨC
 HÓA HỌC 11 THPT
 Họ tên: Nguyễn Tiến Dũng
 Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
 SKKN thuộc môn: Hoá Học 
THANH HOÁ NĂM 2018
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I. MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
1
3. Nhiệm vụ của đề tài
1
4. Những đóng góp của đề tài
1
II. CỞ SỞ LÝ THUYẾT
1
	1. Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng HSG
1
	2. Một số biện pháp bồi dưỡng HSG hóa học ở bậc THPT.
1
III. XÂY DỰNG, TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP BDHSG PHẦN HOÁ HỌC HỮU CƠ LỚP 11 THPT
4
2.1. Sử dụng bài tập để rèn luyện các năng lực tư duy cần có cho học sinh giỏi
4
	2.1.1. Sử dụng bài tập để rèn luyện năng lực phát hiện vấn đề nhận thức cho học sinh
4
	2.1.2. Sử dụng bài tập để giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản và rèn luyện các kĩ năng giải các dạng bài tập cơ bản
5
	2.1.3. Bài tập để rèn luyện cách giải nhanh, thông minh
5
	2.1.4. Sử dụng bài tập để rèn luyện năng lực tư duy độc lập, logic, trừu tượng, đa hướng, khái quát, biện chứng và sáng tạo trong học sinh
6
	2.1.5. Sử dụng bài tập để rèn luyện kỹ năng thực hành
9
2.2. Một số dạng bài tập BDHSG phần hoá học hữu cơ lớp 11 THPT
10
	2.2.1. Dẫn xuất halogen – ancol – phenol
10
	2.2.2. Anđehit – xeton 
13
	2.2.3. Axit cacboxylic
IV. KẾT LUẬN
19
LỜI KẾT
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
	Hằng năm, chúng ta luôn tổ chức các cuộc thi học sinh giỏi (HSG) môn hoá học để phát hiện những em có năng khiếu nên việc tổng kết, đúc rút kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học là rất cần thiết và mang tính thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
	Trong giảng dạy cũng như trong bồi dưỡng HSG, bài tập tổng hợp hữu cơ có vị trí hết sức quan trọng. Nó không những góp phần giúp học sinh hiểu rõ về lý thuyết hoá hữu cơ, về thực tế tổng hợp và sản xuất các chất hữu cơ mà hơn hết là khi giải loại bài tập này
	Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng hệ thống bài tập BDHSG phần hợp chất có nhóm chức Hóa Học 11 THPT”.
2. Mục đích nghiên cứu
	Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng hệ thống bài tập BDHSG phần hoá học hữu cơ lớp 11 THPT.
3. Nhiệm vụ của đề tài
	1. Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
	2. Nghiên cứu chương trình hoá học phổ thông ban khoa học tự nhiên, chương trình chuyên hoá học, phân tích các đề thi HSG cấp tỉnh, cấp quốc gia. 
	3. Xây dựng, tuyển chọn và sử dụng hệ thống bài tập BDHSG phần hoá học hữu cơ lớp 11 THPT.
	4. Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá hiệu quả của hệ thống các dạng bài tập. 
4. Những đóng góp của đề tài
	Về mặt lý luận: 
	Đề tài đã góp phần xây dựng được hệ thống các dạng bài tập phần hữu cơ 11 tương đối phù hợp với yêu cầu và mục đích bồi dưỡng HSG hoá học ở trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
	Về mặt thực tiễn: 
	- Xây dựng được hệ thống bài tập cơ bản về phần hữu cơ 11 dùng bồi dưỡng HSG hoá học.
	- Giúp cho học sinh và giáo viên có thêm tư liệu bổ ích trong học tập và trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
II. CỞ SỞ LÝ THUYẾT
	1. Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng HSG
	Cũng như các nước trên thế giới, Việt Nam rất coi trọng vấn đề đào tạo và bồi dưỡng HSG trong chiến lược giáo dục phổ thông của mình. Vào những năm đất nước còn chiến tranh gian khổ, chúng ta đã quan tâm đến vần đề này. Năm 1962, kì thi chọn HSG toán và văn lớp 10 toàn miền bắc đã được tổ chức (được xem là kì thi chọn HSG quốc gia đầu tiên của nước ta). Và đến năm 1966, hệ thống trung học phổ thông chuyên được lập ra, bắt đầu với những lớp chuyên toán tại các trường đại học lớn về khoa học cơ bản. Từ đó đến nay, hệ thống trường chuyên cùng với các trường trung học phổ thông không chuyên ở tất cả các tỉnh thành đã trở thành cái nôi bồi dưỡng biết bao thế hệ học sinh giỏi.
	Vì sao công tác bồi dưỡng HSG lại được nước ta cũng như các nước khác trên thế giới quan tâm nhiều đến vậy? Để các em đạt kết quả cao trong các kì thi quốc gia, quốc tế? Theo tôi, đây chưa phải là lí do để các nước phải coi trọng vấn đề này, lí do chính ở đây là để nuôi dưỡng nguồn nhân tài tương lai cho đất nước. “Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều tài năng có thể mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng lúc, đúng chỗ...” (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng tại Đại hội VI năm 1996).
	Như vậy, việc phát hiện sớm và tổ chức bồi dưỡng HSG đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển xã hội tương lai. 
	2. Một số biện pháp bồi dưỡng HSG hóa học ở bậc THPT.
	2.1. Những phẩm chất và năng lực cần có của một HSG hoá học
	a. Một số quan niệm về HSG hóa học
	* Theo phó giáo sư Bùi Long Biên (ĐH Bách khoa): ‘‘HSG hóa học phải là người nắm vững bản chất hiện tượng hóa học, nắm vững các kiến thức cơ bản đã được học, vận dụng tối ưu các kiến thức cơ bản đã được học để giải quyết một hay nhiều vấn đề mới (do chưa được học hoặc chưa thấy bao giờ) trong các kì thi đưa ra’’.
	* Theo PGS-TS Trần Thành Huế (ĐHSP Hà Nội): Nếu dựa vào kết quả bài thi để đánh giá thì một học sinh giỏi hoá cần hội đủ các yếu tố sau đây:
	- Có kiến thức cơ bản tốt, thể hiện nắm vững các khái niệm, định nghĩa, định luật, quy tắc đã được quy định trong chương trình, không thể hiện thiếu sót về công thức, phương trình hoá học. 
	- Vận dụng sắc bén, có sáng tạo, đúng các kiến thức cơ bản. 
	- Tiếp thu và dùng được ngay một số ít vấn đề mới do đầu bài đưa ra. Những vấn đề mới này là những vấn đề chưa được cập nhật hoặc đã được đề cập đến mức độ nào đó trong chương trình hoá học phổ thông nhưng nhất thiết vấn đề đó phải liên hệ mật thiết với các nội dung chương trình. 
	* Theo PGS-TS Cao Cự Giác (ĐH Vinh): Một học sinh giỏi hoá học phải là:
	- Có kiến thức cơ bản tốt: Thể hiện nắm vững kiến thức cơ bản một cách sâu sắc, có hệ thống.
	- Có khả năng tư duy tốt và tính sáng tạo cao: Trình bày và giải quyết vấn đề một cách linh hoạt, rõ ràng, khoa học.
	- Có khả năng thực hành thí nghiệm tốt: Hoá học là khoa học vừa lí thuyết vừa thực nghiệm do đó không thể tách rời lí thuyết với thực nghiệm, phải biết cách vận dụng lí thuyết để điều khiển thực nghiệm và từ thực nghiệm kiểm tra các vấn đề của lí thuyết, hoàn thiện lí thuyết cao hơn.
	b. Những phẩm chất và năng lực cần có của một HSG hóa học
	- Có kiến thức hoá học cơ bản, vững vàng, sâu sắc, hệ thống. Để có được phẩm chất này đòi hỏi học sinh phải có năng lực tiếp thu kiến thức, tức là có khả năng nhận thức vấn đề nhanh, rõ ràng; có ý thức tự bổ sung, hoàn thiện kiến thức ngay ở dạng sơ khởi.
	- Có trình độ tư duy hoá học phát triển, có tính sáng tạo cao. Để có được những phẩm chất này đòi hỏi học sinh phải có năng lực suy luận logic, năng lực kiểm chứng, năng lực diễn đạt.
	- Có khả năng quan sát, nhận thức các hiện tượng hoá học. Phẩm chất này được hình thành từ năng lực quan sát sắc sảo, mô tả, giải thích hiện tượng các quá trình hoá học, năng lực thực hành của học sinh.
	- Có khả năng vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo kiến thức, kỹ năng đã có để giải quyết vấn đề, các tình huống xảy ra. Đây là phẩm chất cao nhất cần có ở một học sinh giỏi. 
	2.2. Một số biện pháp phát hiện HSG hoá học ở bậc THPT
	Để xác định được những học sinh học giỏi hóa học, giáo viên cần phải làm rõ: 
	- Mức độ nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh theo tiêu chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình và sách giáo khoa. 
	- Trình độ nhận thức, mức độ tư duy của từng học sinh và đặc biệt là đánh giá được khả năng vận dụng kiến thức linh hoạt, sáng tạo của học sinh. 
	Muốn vậy, giáo viên phải theo dõi quá trình học tập trên lớp của học sinh và tiến hành kiểm tra toàn diện kiến thức của học sinh. Thông qua bài kiểm tra, giáo viên có thể phát hiện HSG hoá học theo các tiêu chí: 
	- Mức độ đầy đủ, rõ ràng về mặt kiến thức. 
	- Tính logic trong bài làm của học sinh đối với từng yêu cầu cụ thể. 
	- Tính khoa học, chi tiết, độc đáo được thể hiện trong bài làm của học sinh. 
	- Tính mới, tính sáng tạo (những đề xuất mới, những giải pháp có tính mới về mặt bản chất, cách giải bài tập hay, ngắn gọn...). 
	- Mức độ làm rõ nội dung chủ yếu phải đạt được của toàn bài kiểm tra.
	- Thời gian hoàn thành bài kiểm tra. 
	Tuy nhiên, để có thể phát hiện HSG bằng kiểm tra kiến thức một cách có hiệu quả và chính xác, câu hỏi đặt ra phải đòi hỏi ở học sinh khả năng tư duy sáng tạo, khả năng vận dụng linh hoạt các kiến thức, kĩ năng đã học. 
	2.3. Một số biện pháp bồi dưỡng HSG hoá học ở bậc THPT 
	a. Kích thích động cơ học tập của học sinh
	Quá trình học tập tại lớp bồi dưỡng HSG thường rất vất vả và căng thẳng. Các giáo viên dạy đội tuyển cần phải biết kích thích động cơ học tập của các em để các em có thể vượt qua những khó khăn trong tiến trình học tập này. Sau đây là một số biện pháp, các giáo viên có thể tham khảo: 
	- Tạo ra và duy trì không khí dạy học trong lớp nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc học tập và phát triển của học sinh. 
	Trong môi trường đó, học sinh dễ dàng bộc lộ những hiểu biết của mình và sẵn sàng tham gia tích cực vào quá trình dạy học.
	- Giao các nhiệm vụ học tập phù hợp với khả năng của học sinh. Bởi lẽ nếu nó quá dễ thì sẽ dẫn đến sự nhàm chán, ngược lại nếu quá khó thì học sinh dễ nản lòng. 
	- Xây dựng niềm tin và những kỳ vọng tích cực trong mỗi học sinh:
	+ Bắt đầu công việc học tập, công việc nghiên cứu vừa sức đối với học sinh. 
	+ Làm cho học sinh thấy mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được. 
	+ Cho học sinh thấy rằng năng lực học tập của các em có thể được nâng cao hơn nữa nếu các em cố gắng. 
	- Làm cho học sinh tự nhận thức được lợi ích, giá trị của việc được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi.
	+ Việc học trong đội tuyển trở thành niềm vui, niềm vinh dự. 
	+ Phương pháp học tập, khối lượng kiến thức thu được khi tham gia đội tuyển sẽ giúp các em học tốt môn hóa cũng như các môn học khác trên lớp. 
	Hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh là cả một quá trình lâu dài. Nó được hình thành dần trong quá trình học sinh ngày càng đi sâu chiếm lĩnh đối tượng học tập dưới sự tổ chức và điều khiển của giáo viên. Vì vậy, giáo viên cần phải chú ý hình thành động cơ học tập cho học sinh ngay từ trên lớp. Nếu trong dạy học, giáo viên luôn thành công trong việc tổ chức cho học sinh tự phát hiện ra những điều mới lạ, cách giải quyết thông minh các nhiệm vụ học tập, tạo ra được những ấn tượng tốt đẹp đối với việc học thì dần dần làm nảy sinh nhu cầu của các em đối với tri thức khoa học. Học tập sẽ trở thành nhu cầu không thể thiếu được của các em. 
	b. Soạn thảo nội dung dạy học và có phương pháp dạy học hợp lý
	Nội dung dạy học gồm hệ thống lý thuyết và hệ thống bài tập tương ứng. Trong đó, hệ thống lý thuyết phải được biên soạn đầy đủ, ngắn gọn, dễ hiểu, bám sát yêu cầu của chương trình; soạn thảo, lựa chọn hệ thống bài tập phong phú, đa dạng giúp học sinh nắm vững kiến thức, đào sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng, đồng thời phát triển được tư duy cho học sinh. 
	Sử dụng phương pháp dạy học hợp lý sao cho học sinh không cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi và quá tải, đồng thời phát huy được tối đa tính tích cực, tính sáng tạo và nội lực tự học tiềm ẩn trong mỗi học sinh. 
	c. Kiểm tra, đánh giá
	Trong quá trình dạy đội tuyển, giáo viên có thể đánh giá khả năng, kết quả học tập của học sinh thông qua việc quan sát hành động của từng em trong quá trình dạy học, kiểm tra hoặc phỏng vấn, trao đổi. Hiện nay, thường đánh giá kết quả học tập của học sinh trong đội tuyển bằng các bài kiểm tra, bài thi (bài tự luận, trắc nghiệm hoặc bài thi hỗn hợp). Tuy nhiên cần chú ý là các câu hỏi trong bài thi nên được biên soạn sao cho có nội dung khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. 
III. XÂY DỰNG, TUYỂN CHỌN VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP BDHSG PHẦN HOÁ HỌC HỮU CƠ LỚP 11 THPT
2.1. Sử dụng bài tập để rèn luyện các năng lực tư duy cần có cho học sinh giỏi
	2.1.1. Sử dụng bài tập để rèn luyện năng lực phát hiện vấn đề nhận thức cho học sinh
	Để học giỏi môn hoá học, học sinh cần có những phẩm chất và năng lực như: có hệ thống kiến thức hoá học cơ bản vững vàng, sâu sắc; có trình độ tư duy hóa học phát triển (năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát, suy luận logic,) có kỹ năng thực hành và vận dụng linh hoạt sáng tạo kiến thức hoá học đó để giải quyết các vấn đề trong hóa học cũng như trong thực tiễn, 
	Vì vậy, phát triển năng lực nhận thức và rèn luyện các kỹ năng là những yêu cầu cơ bản, quan trọng nhất của quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Trong dạy học hoá học, bài tập hóa học là một phương tiện và phương pháp rất có lợi thế để hình thành các kỹ năng và phát triển năng lực tư duy cho học sinh (HS). Chúng tôi đưa ra một số bài tập để phát triển năng lực nhận thức cho HS theo các hướng sau. 
	2.1.1.1. Phát hiện vấn đề nhận thức từ việc đọc đề bài toán
	Đây là giai đoạn nghiên cứu đề bài trong quá trình giải bài toán hoá học. Khi đọc đề bài, trước hết học sinh phải hiểu biết từ ngữ, thấy được logic của bài toán, hiểu được ý đồ của tác giả, hình dung được tiến trình luận giải và phát hiện những chổ có vấn đề của bài toán.
	2.1.1.2. Phát hiện vấn đề nhận thức từ việc nghiên cứu phản ứng hóa học (HH)
	Việc nghiên cứu phản ứng hóa học có thể giúp học sinh đi đến những nhận xét có tính khái quát hoá cao, từ đó có thể giúp học sinh giải nhanh các bài toán hóa học.
	2.1.2. Sử dụng bài tập để giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản và rèn luyện các kĩ năng giải các dạng bài tập cơ bản
	Một trong những dạng bài tập nhằm giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản trong bộ môn hóa học là bài tập hoàn thành phương trình phản ứng theo sơ đồ và bài tập điều chế. Bài tập hoàn thành sơ đồ phản ứng là một dạng bài tập đòi hỏi học sinh vừa phải có kiến thức tổng quát về các chất và các phản ứng hóa học, vừa có khả năng phân tích, suy luận để có thể xác định được các chất và phản ứng hóa học theo sơ đồ đó cho. Vì vậy, dạng bài tập nay có tác dụng rất tốt trong việc củng cố kiến thức về các phản ứng hóa hữu cơ và phát triển tư duy cho học sinh. 
Ví dụ: (Trích đề thi học sinh giỏi lớp 12 Thành phố Hà Nội, năm học 2007 – 2008): Cho sơ đồ biến hoá sau: 
CxHyO (CHẤT A) (CHẤT B) C6H14O (CHẤT D).
	Biết rằng trong phân tử chất A có số nguyên tử cacbon nhỏ hơn 6, các chất đều có cấu tạo mạch hở, không nhánh; mỗi mũi tên ứng với 1 phương trình hoá học và cả hai quá trình trên đều không sử dụng thêm hợp chất khác chứa cacbon. Tìm các công thức cấu tạo của các chất A, B, D vả viết các phương trình hoá học phù hợp với quá trình biến hoá trên. 
	Hướng dẫn giải :
	Để giải bài tập này, HS cần dựa vào gợi ý của đầu bài : CTPT của chất D là C6H14O, dựa vào đó để biện luận CTCT của D thông qua kiến thức đó học về đặc điểm cấu tạo và tính chất hóa học cơ bản của các hợp chất hữu cơ có chứa oxi.
	Cụ thể, với CTPT C6H14O có độ bội liên kết a = 0 D là hợp chất no có chứa oxi D chỉ có thể là ancol no, đơn chức, mạch hở hoặc là ete no, đơn chức, mạch hở.
	Dựa vào sơ đồ trên, theo giả thiết, A có số nguyên tử C nhỏ hơn 6, các chất đều có cấu tạo mạch hở, không nhánh; mỗi mũi tên ứng với 1 phương trình hoá học và cả hai quá trình trên đều không sử dụng thêm hợp chất khác chứa cacbon D chỉ có thể là ete đối xứng mạch không phân nhánh, no, đơn chức, mạch hở : CH3CH2CH2OCH2CH2CH3 B chỉ có thể là CH3CH2CH2OH
Vậy, chất A có thể là CH3CH2CHO hoặc CH2 = CH – CHO, CH2 = CH – CH2OH, CHº C-CH2OH
	2.1.3. Bài tập để rèn luyện cách giải nhanh, thông minh
	Đó là những bài tập khó, hay và trong quá trình tìm tòi cách giải có tác dụng phát triển tư duy của HS. Khi tư duy được hoạt hoá thì HS sẽ có cách giải bài toán thông minh nhất, đó là con đường đi đến kết quả ngắn nhất và sáng tạo nhất.
	Thực tế giảng dạy thấy rằng, trước bài toán nhiều HS lựa chọn cách giải là viết phương trình các phản ứng có thể xảy ra, sử dụng kỹ năng tính theo phương trình phản ứng lập bài toán đại số. Với cách làm này bài toán trở nên rất phức tạp và có nhiều phản ứng có thể xảy ra, hệ phương trình đại số lập được có nhiều ẩn số
	Nếu biết vận dụng các định luật bảo toàn trong phản ứng oxi hoá khử, biết nhận xét để tìm ra các quy luật từ các phương trình phản ứng, ta có thể giải nhanh chóng các dạng bài tập này.
Ví dụ: (Trích đề thi HSG tỉnh Bắc Giang – năm 2008- 2009)
	Chia 7,1 gam hỗn hợp X gồm hai andehit đơn chức thành hai phần bằng nhau:
	- Phần 1 đốt cháy hoàn toàn thu được 7,7 gam CO2 và 2,25 gam H2O.
	- Phần 2 cho tác dụng với lượng dư dung dịch AgNO3 trong NH3 thu được 21,6 gam bạc. 
	a. Xác định công thức phân tử, viết công thức cấu tạo và gọi tên hai anđehit trên?
	b. Bằng phương pháp hoá học hãy phân biệt mỗi andehit trên?
	Hướng dẫn giải: Với bài tập này, tác giả muốn kiểm tra kiến thức HS về phản ứng đốt cháy và phản ứng tráng gương của anđehit, đặc biệt lưu ý trường hợp khác biệt của anđehit fomic.
	- Giải một cách đơn thuần thì HS sẽ gọi công thức trung bình của hai anđehit đơn chức, giả sử hai anđehit này khác HCHO, viết ptpư cháy và ptpư với AgNO3 trong NH3, lập các hệ phương trình đại số để giải.
	- Để giải nhanh hơn, yêu cầu HS phải có kiến thức vững vàng về phản ứng cháy và phản ứng oxi hóa không hoàn toàn của anđehit.
	Cụ thể như sau:
	= = 0,175 (mol); = = 0,125 (mol)
	> Trong hai anđehit có ít nhất một anđehit không no, đơn chức.
	Mặt khác, áp dụng định luật bảo toàn khối lượng ta có:
	pư = + - mX = 2,25+ 7,7 – = 6,4 (gam)
	pư = = 0,2 (mol)
	Gọi công thức trung bình của hai anđehit đơn chức là: 
	Trong đó, > 1, > 0
	Phương trình phản ứng đốt cháy:
+ O2 "CO2 + (+1-)H2O
	 = =1,4 (1)
	Giả sử, hai anđehit khác HCHO, nanđehit = nAg= = 0,1 (mol)
	 anđehit = = 35,5 14-2+18 = 35,5 (2)
Thay (1) vào (2), ta được =1,39; = 0,994 1n< 1,39 < m 
 n = 1Điều giả sử trên là sai.
	Vậy, trong hai anđehit có 1 chất là HCHO chất còn lại là anđehit không no, đơn chức.
	Gọi công thức của anđehit không no, đơn chức là CnH2n+2-2aO (n3, a2; a, nZ)
	Gọi số mol của HCHO và CnH2n+2-2aO trong hỗn hợp lần lượt là x, y (x, y > 0)
	Ta có, = x + (n +1-a)y = 0,125 (mol) (3)
 = x + ny = 0,175 (mol) (4)
 nAg = 4x + 2y = = 0,2 (mol) (5)
	mhỗn hợp = 30x + (14n + 18 – 2a)y = 7,1/2 = 3,55 (6)
	Từ (3), (4) (a-1)y = 0,05 (7)
	(6) 16x + 14[x + (n+1-a)y] +4y +12ay = 3,55
	 4(4x+2y) + 14x 0,125 - 4y +12ay =3,55
	 4(3a – 1)y = 1 (8)
	Chia (7) cho (8) theo vế, ta được: a = 2
	 y = 0,05 (mol); x = 0,025 (mol), n = 3.
	Vậy, công thức cấu tạo của hai anđehit là: HCHO và CH2=CH-CHO
	Phân biệt hai anđehit này bằng phương pháp hóa học: 
	2.1.4. Sử dụng bài tập để rèn luyện năng lực tư duy độc lập, logic, trừu tượng, đa hướng, khái quát, biện chứng và sáng tạo trong học sinh
 	2.1.4.1. Bài tập để rèn luyện khả năng suy luận, năng lực tư duy độc lập, diễn đạt chính xác và logic
	Khi đánh giá trình độ hiểu biết hóa học của một HS, tất nhiên phải chú ý đến khối lượng kiến thức hóa học mà HS đó đó lĩnh hội được, nhưng như thế là chưa đủ, còn phải chú ý đến khả năng sử dụng kiến thức đó để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra bằng suy luận độc lập của mình, và chính điều này mới đảm bảo việc tiếp thu kiến thức một cách vững chắc. Vì thế, một vấn đề rất quan trọng của dạy học là phải rèn luyện cho HS thói quen suy nghĩ và hành động độc lập, từ tư duy độc lập sẽ dẫn đến tư duy phê phán, khả năng phát hiện, giải quyết vấn đề rồi đến tư duy sáng tạo. Như vậy, độc lập là tiền đề cho sáng tạo. Trong thực tiễn dạy học, việc truyền thụ kiến thức và rèn năng lực suy nghĩ độc lập không được coi trọng như nhau, mà vẫn nặng về truyền thụ, trong khi đó rèn các thao tác tư duy độc lập là phương pháp có hiệu quả nhất để HS tiếp thu kiến thức một cách sâu sắc và sáng tạo nhất. 
Ví dụ 1: Phenol và anilin đều làm mất màu nước brom ngay ở nhiệt độ thường, nhưng toluen thì không.
	a. Từ kết quả thực nghiệm đó có thể rút ra kết luận gì?
	b. Anisol (metylphenylete) có làm mất màu nước brom không?
	c. Nếu cho nước brom lần lượt vào từng chất p-toludin (p-aminotoluen), p-cresol (p-metylphenol) theo tỉ lệ mol tối đa thì thu được sản phẩm gì? Giải thích?
	N

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_xay_dung_tuyen_chon_va_su_dung_he_thong_bai_tap_boi_duo.doc