SKKN Xây dựng một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT Tĩnh Gia 4

SKKN Xây dựng một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT Tĩnh Gia 4

Trong những năm học gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh những hiện tượng học sinh phạm pháp, làm nhục bạn bè ngay trong lớp, đánh bạn có tổ chức. Chúng ta không còn xa lạ với việc học sinh thiếu văn hoá trong giao tiếp, ứng xử hoặc rụt rè trong giao tiếp, không biết xử lý các tình huống trong cuộc sống dẫn đến những câu chuyện đáng buồn vấn đề bạo lực học đường ngày càng gia tăng, học sinh tự tử vì nhiều nguyên nhân. Theo các chuyên gia giáo dục, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống.

 Đứng trước vấn nạn sa sút về đạo đức lối sống của HS, năm học 2011 - 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng cường nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh"[1], tích cực lồng ghép dạy học tích hợp GD KNS cho các em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường.

 Tuy nhiên, với thói quen dạy và học chưa có tích hợp GD KNS trước kia, nhiều GV cảm thấy rất khó khăn khi lồng ghép GD KNS cho HS vào giờ học. Hơn thế nữa, GD KNS cho các em HS là rất cần thiết nhưng do mới được yêu cầu áp dụng rộng rãi nên còn chưa có tài liệu chuẩn cho các nhà trường vận dụng. Nhiều trường học hiểu không rõ về chương trình này lại càng hoang mang, không biết dạy cái gì và dạy như thế nào. Nhiều GV bối rối không biết phải GD KNS cho HS ra làm sao, lồng ghép vào khi nào và lồng ghép như thế nào cho hợp lí.

 

docx 19 trang thuychi01 6141
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Xây dựng một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT Tĩnh Gia 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
 Trong những năm học gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh những hiện tượng học sinh phạm pháp, làm nhục bạn bè ngay trong lớp, đánh bạn có tổ chức. Chúng ta không còn xa lạ với việc học sinh thiếu văn hoá trong giao tiếp, ứng xử hoặc rụt rè trong giao tiếp, không biết xử lý các tình huống trong cuộc sống dẫn đến những câu chuyện đáng buồn vấn đề bạo lực học đường ngày càng gia tăng, học sinh tự tử vì nhiều nguyên nhân. Theo các chuyên gia giáo dục, nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống.
 Đứng trước vấn nạn sa sút về đạo đức lối sống của HS, năm học 2011 - 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng cường nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh"[1], tích cực lồng ghép dạy học tích hợp GD KNS cho các em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường.
 Tuy nhiên, với thói quen dạy và học chưa có tích hợp GD KNS trước kia, nhiều GV cảm thấy rất khó khăn khi lồng ghép GD KNS cho HS vào giờ học. Hơn thế nữa, GD KNS cho các em HS là rất cần thiết nhưng do mới được yêu cầu áp dụng rộng rãi nên còn chưa có tài liệu chuẩn cho các nhà trường vận dụng. Nhiều trường học hiểu không rõ về chương trình này lại càng hoang mang, không biết dạy cái gì và dạy như thế nào. Nhiều GV bối rối không biết phải GD KNS cho HS ra làm sao, lồng ghép vào khi nào và lồng ghép như thế nào cho hợp lí.
Là một GV trong nhà trường, trực tiếp đứng trên bục giảng, qua những năm công tác tại trường THPT Tĩnh Gia 4, tôi nhận thấy rằng các em HS của trường còn rất thiếu và yếu về KNS. Các em rất nhút nhát, không mạnh dạn tham gia các hoạt động tập thể, KN giao tiếp cực kì hạn chế, KN giải quyết mâu thuẫn lại càng hạn chế hơn. Vì vậy, những năm học gần đây, tôi luôn trăn trở là làm thế nào để các em có được nhận thức đúng đắn về giá trị cuộc sống cũng như có cách giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống một cách tốt đẹp nhất. Cũng xuất phát từ đây, trong những giờ tôi lên lớp tôi luôn chú trọng việc dạy học lồng ghép GD KNS cho các em HS thông qua bộ môn của mình. Đặc biệt trong công tác chủ nhiệm đây là cơ hội tốt nhất để gần gũi và GD KNS cho các em HS của lớp mình. Vì vậy khi được giao nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm, tôi đã chủ động lên kế hoạch cho những tiết sinh hoạt lớp, những buổi sinh hoạt tập thể, sinh hoạt dưới cờ... để làm sao qua những hoạt động tập thể trên các em có thêm được nhiều KNS cần thiết từ đó giúp các em ngày một tiến bộ hơn.
Từ những thực trạng và mong muốn trên, cùng với những trải nghiệm và kết quả đạt được trong công tác chủ nhiệm, đặc biệt là công tác GD KNS cho các em HS lớp chủ nhiệm, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài:
“Xây dựng một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT Tĩnh Gia 4”.
2. Mục đích nghiên cứu
 Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm GD KNS cho các em HS lớp mà tôi làm công tác chủ nhiệm ở trường THPT Tĩnh Gia 4, qua đó giúp các em HS:
- Có khả năng giao tiếp, ứng xử một cách linh hoạt và đạt hiệu quả cao.
- Làm chủ được bản thân, sống tự tin, năng động.
- Biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, biết cách giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống dễ dàng.
- Sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và cộng đồng.
- Sống đoàn kết, có tình cảm hơn, mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình.
- Luôn biết kiềm chế cảm xúc, làm chủ được các hành vi ứng xử của bản thân.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận, thực tiễn và kiến thức cần thiết cho việc GD KNS.
- Nhiên cứu một số phương pháp giáo dục KNS cho HS lớp chu nhiệm.
- Nghiên cứu cụ thể trong công tác chủ nhiệm lớp.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp phân tích và đánh giá kết quả
- Phương pháp viết báo cáo khoa học
5. Cấu trúc của SKKN
 Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc GDKNS cho học sinh trường THPT Tĩnh Gia 4 thông qua công tác chủ nhiệm
Chương 2. Một số phương pháp GDKNS thông qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT Tĩnh Gia 4
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 4 THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
I.1.1.1. Kỹ năng sống là gì?
Có nhiều cách định nghĩa nhưng thống nhất trên những nội dung cơ bản:
KNS (life skills) chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
Theo WHO “KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội. Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.”[2 – trang 7]
Theo UNICEF, GD dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào).[2 – trang 7]
KNS chính là những KN tinh thần hay những KN tâm lý, xã hội giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. KNS còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trong cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại [2 - trang 7]
1.1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống là gì?
Giáo dục Kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng thích hợp. 
Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được hiểu là giáo dục những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp các em có thể chuyển tải những gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp học sinh biết phải làm gì và làm như thế nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.[ 2 – trang 8] 
1.1.2. Phân loại Kỹ năng sống
	Dựa trên cách phân loại từ lĩnh vực sức khỏe, UNESCO đưa ra cách phân loại Kỹ năng sống thành 3 nhóm (UNESCO Hà Nội, 2003):
      + Kỹ năng nhận thức
      + Kỹ năng đương đầu với cảm xúc
      + Kỹ năng xã hội hay kỹ năng tương tác
Trong tài liệu về giáo dục Kỹ năng sống hợp tác với UNICEF (Bộ Giáo dục & Đào tạo) đã giới thiệu cách phân loại khác, trong đó Kỹ năng sống cũng được phân thành 3 nhóm: [2 - trang 9]
      + Kỹ năng nhận biết và sống với chính mình
      + Những kỹ năng nhận biết và sống với người khác
      + Các kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả 
1.1.3. Mối quan hệ giữa công tác chủ nhiệm lớp với việc GD KNS cho học sinh
Công tác chủ nhiệm lớp là hoạt động giáo dục quan trọng ở nhà trường phổ thông. Hoạt động này có ý nghĩa hỗ trợ cho giáo dục nội khoá, góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và khả năng sáng tạo của học sinh. Nội dung của hoạt động này rất phong phú và đa dạng .Nhờ đó, các kiến thức tiếp thu được ở trên lớp có cơ hội được bổ sung, áp dụng, mở rộng thêm trên thực tế, đồng thời có tác dụng nâng cao hứng thú học tập nội khoá.
Từ những đặc điểm trên, ta nhận thấy công tác chủ nhiệm lớp có những đặc thù na ná với đặc thù của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Chính vì vậy, hiện nay hoạt động này được tích hợp giáo dục kỹ năng sống nhiều nhất trong các môn học và cũng là hoạt động dễ thực hiện việc giáo dục kỹ năng sống nhất.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm chung của trường THPT Tĩnh Gia 4
 Hầu hết, học sinh trường THPT Tĩnh Gia 4 là học sinh thuộc các xã phía Bắc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Hoạt động kinh tế của gia đình chủ yếu là thuần nông, thuộc vùng bãi ngang, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ học sinh trình độ học vấn nhìn chung còn thấp vì vậy việc học tập, rèn luyện của các em ít có sự hướng dẫn của bố mẹ.
Mặt khác, so với mặt bằng chung của huyện Tĩnh Gia, đời sống nhân dân còn khó khăn, trình độ dân trí còn hạn chế, thiếu các điều kiện học tập, giải trí. Đây chính là nguyên nhân chính khiến cho học sinh ở đây chịu thiệt thòi trong việc tiếp cận thông tin, giao lưu với các thành phần tiến bộ hơn về tri thức. Điều đó dẫn đến các em thiếu nhiều kỹ năng sống, đặc biệt là các kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng hợp tác, kỹ năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ các nhân, kỹ năng tư duy tích cực
Bên cạnh đó, nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, giáo viên trong trường, Hội cha mẹ học sinh, ban ngành đoàn thể chưa đúng mức về vị trí vai trò,t ầm quan trọng của việc giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Đó là thực hiện tốt vai trò nhiệm vụ của nhà trường ,trong bối cảnh của giáo dục cả nước trong thời kỳ đang hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.
1.2.2. Thực trạng việc tổ chức GDKNS cho học sinh ở trường THPT Tĩnh Gia 4
1.2.2.1. Đối với giáo viên bộ môn
Giáo viên bộ môn Giáo dục công dân, HĐNGLL, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý đã được tập huấn các địa chỉ,các bài phải tích hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, tuy nhiên qua kiểm tra giáo án của các giáo viên này thì có một số giáo án chưa thấy đề cập việc rèn luyện kỹ năng sống trong phần mục tiêu bài.
1.2.2.2. Trong các tiết sinh hoạt lớp, HĐNGLL, sinh hoạt dưới cờ
Qua nghiên cứu phân tích ,đánh giá thì việc lồng ghép giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh có thực hiện tuy nhiên chưa đúng mức ,chưa được xem trọng và hiệu quả đem lại chưa được như mong muốn.
1.2.2.3. Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa ,hoạt động văn nghệ,thể dục thể thao,các cuộc thi
 Nhà trường có phối hợp với Đoàn tổ chức các hoạt động ngoại khóa theo kế hoạch của ngành và Hội đồng đội huyện ,tuy nhiên việc tổ chức các hoạt động này còn ít trong đó việc xác định mục tiêu rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh chưa được chú trọng đúng mức và đầy đủ.
1.2.2.5. Nhận xét đánh giá thực trạng
- Học sinh trong trường về tinh thần và thái độ học tập chưa cao, còn nhiều học sinh lười học, trốn học bỏ tiết đi chơi game, bi-a, các em rất dễ bị kích động dẫn đến gây gổ đánh nhau.
- Một số em bị những thanh niên lêu lổng lôi kéo vào những tệ nạn như chích hút ma túy, tụ tập nhậu nhẹt, bỏ nhà đi hoang
- Đa số học sinh chưa có nhận thức đúng về ý thức tự giác, tích cực trong học tập, chưa có ước mơ hoài bảo, định hướng nghề nghiệp trong tương lai còn rất mơ hồ, kỹ năng diển đạt trình bài trước đám đông còn rất kém, số đông học sinh ứng xử với nhau chưa thật sự có văn hóa.
Nhìn chung, kỹ năng sống của học sinh trong trường là chưa tốt, chưa đạt được những kỹ năng cơ bản nhất mà một học sinh bậc trung học phổ thông cần phải có.
Chương 2. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 4
2.1. GD KNS cho học sinh lớp chủ nhiệm thông qua giờ sinh hoạt lớp
2.1.1. Các phương pháp sinh hoạt lớp theo kiểu cũ
Hiện nay hầu như các GVCN thực hiện giờ sinh hoạt lớp vào cuối tuần với lớp chủ nhiệm thường theo phương thức cũ:
Thứ nhất: GVCN tổng kết hoạt động tuần qua, xem xét qua các lỗi vi phạm của HS, chấn chỉnh những sai phạm, khiển trách hay cảnh cáo những trường hợp sai phạm của HS. Sau đó, GV thông báo KH hoạt động trong tuần sắp tới, nhắc nhở và phân công HS thực hiện theo KH. GVCN còn làm nhiệm vụ “tài chính” (thu tiền học phí và các khoản thu khác) trong giờ sinh hoạt lớp. Ngoài ra GVCN kể hoặc đọc những câu chuyện mang tính GD cho cả lớp nghe và từ đó HS rút ra được những bài học cần thiết cho bản thân mình.
Thứ hai: GVCN giao cho lớp trưởng báo cáo tình hình tuần qua, báo cáo những trường hợp sai phạm cần nhắc nhở, chấn chỉnh và động viên các em. GVCN làm nhiệm vụ “tài chính” trong giờ sinh hoạt lớp. GVCN la mắng HS vi phạm một cách gay gắt. GVCN nhận xét qua loa rồi đọc thông báo chung cho cả lớp KH của nhà trường và của lớp. Sau đó, bí thư chi đoàn hoặc lớp phó văn thể tổ chức văn nghệ hoặc các nội dung sinh hoạt khác. Ngoài ra, GVCN kể hoặc đọc những câu chuyện mang tính GD cho cả lớp nghe và từ đó HS rút ra được những bài học cần thiết cho bản thân.
Những phương thức như trên chỉ thích hợp với các lớp HS ngoan, nhanh nhẹn, ít vi phạm nội quy trường lớp. Còn đối với các lớp thường xuyên có HS vi phạm thì giờ sinh hoạt lớp như vậy sẽ nhàm chán, nặng nề vì HS trong lớp cho rằng phải đối phó với những sai phạm trong tuần qua và tâm lý chung sẽ là mắc cỡ, e ngại, tự ti
 Riêng với những em thường xuyên vi phạm thì tình hình còn có thể bi đát hơn: tâm lý bất cần sẽ nảy sinh, các em có thể trở nên lì hơn, “cứng đầu” hơn, khó bảo hơn, thậm chí là sẽ nghỉ học vào buổi sinh hoạt cuối tuần. Chính vì vậy cần thay đổi nội dung sinh hoạt ở lớp chủ nhiệm sao cho tăng tính chủ động của HS nhiều hơn nữa, nâng cao vai trò của tập thể lớp chứ không phải vai trò của GVCN, của một lớp trưởng hay bí thư chi đoàn. Biến giờ sinh hoạt lớp thành một buổi chơi với nhiều trò chơi khác nhau mang đầy tính GD mà ý định lồng ghép GD KNS cho HS đã được GVCN chuẩn bị trước. 
2.1.2. Các phương pháp sinh hoạt lớp theo cách thức mới
Trong cách sinh hoạt mới, lớp trưởng sơ kết tuần vừa qua, GVCN ghi nhận những HS có thành tích tốt trong tuần, nhắc nhở HS vi phạm và nhận xét chung, phổ biến KH của tuần tới. Sau đó là hoạt động tập thể theo chủ đề và kịch bản đã được GVCN chuẩn bị trước.
2.1.2.1. Tổ chức trò chơi
2.1.2.1.1. Một số ưu, nhược điểm
- Qua trò chơi, người học có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi. Bởi con người thể hiện như thế nào trong trò chơi thì phần lớn nó thể hiện như thế trong cuộc sống thực. Chính sự trải nghiệm này sẽ hình thành được ở HS niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, người học sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
- Qua trò chơi, người học được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
- Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Người học được lôi cuốn vào quá trình học tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
-Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa người học với người học, giữa người dạy với người học.[2 - trang 26]
2.1.2.1.2.Những lưu ý khi tổ chức trò chơi cho các em HS lớp chủ nhiệm 
 - Không nên sa đà vào việc tổ chức các trò chơi mang tính giải trí đơn thuần, sẽ làm sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung GD KNS trong giờ sinh hoạt.
- Khó khăn trong việc lồng ghép nội dung GD KNS vào giờ sinh hoạt bằng cách tổ chức trò chơi và cách khắc phục:
Lớp ồn ào, gây ảnh hưởng lớp kế bên. Vì vậy, BGH cần tổ chức tiến hành sinh hoạt đồng thời tất cả các lớp và hãy chấp nhận sự ồn ào có định hướng chứ không phải ồn ào mất trật tự.
+ Các trò chơi lặp đi lặp lại gây nhàm chán: GVCN phải chuẩn bị trước và tham khảo thêm các trò chơi cho phù hợp, thay đổi nội dung và phương thức sinh hoạt.
2.1.2.1.3. Một số trò chơi có thể lồng ghép trong tiết sinh hoạt lớp
 Thông thường, các trò chơi đều mang ý nghĩa giáo dục nhưng một số trò chơi sau đây có thể tích hợp nhiều nhất nội dung GD KNS và tôi từng áp dụng cho HS lớp chủ nhiệm.
Trò chơi 1: Mong muốn, hi vọng, quan tâm
- Cách chơi: Chuẩn bị một cái hộp, những mảnh giấy trắng. Trong vòng 3 phút, các em viết ra những mong muốn riêng của mình về một môn học hoặc một hoạt động nào đó, nói lên những điều mình hi vọng sẽ đạt được và cả những điều mà mình quan tâm đến. GVCN tổng hợp lại những mong muốn, suy nghĩ, tâm tư và nguyện vọng của các HS. Từ đó, GV đưa ra lời nhận xét về những điều mà các em đang cần và đang quan tâm, những mơ ước và hoài bão của các em HS.
- Ý nghĩa của trò chơi:
 + HS được mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ, mong muốn, hi vọng và quan tâm.
 + GVCN lắng nghe và thấu hiểu HS.Từ đó, đề ra biện pháp dạy học và GD phù hợp.
- Các KN được hình thành và củng cố:
KN lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân: Được hình thành trong hoạt động HS tự mình viết ra những mong muốn riêng của mình, nói lên những điều mình hi vọng sẽ đạt được và cả những điều mà mình quan tâm đến; lớp trưởng được giao nhiệm vụ thu các mẫu giấy của các bạn thể hiện vai trò lãnh đạo lớp.
KN lắng nghe: Được hình thành khi GV nêu yêu cầu, thông báo luật, nội dung của trò chơi; HS phải lắng nghe để xác định rõ luật chơi và cách chơi. HS chăm chú lắng nghe các thông tin được đọc ra từ các mảnh giấy do các em viết nên.
 + KN thuyết trình: Được hình thành khi HS đứng dậy và đọc những điều được ghi trong các mảnh giấy lấy ra từ trong hộp.
 + KN giao tiếp và ứng xử: Được hình thành và củng cố thông qua quá trình giao tiếp giữa các em HS với nhau, giữa GV và HS trong quá trình thực hiện trò chơi.
Trò chơi 2: Lắng nghe
Luật chơi và cách tiến hành:
+ GV: Chọn ra các em HS xung phong tham gia trò chơi (từ 5 - 7 em) và thành lập một đội (bầu ra đội trưởng).
 + HS: Chuẩn bị một tờ giấy trắng và bút viết.
Ban đầu một đội 5 - 7 HS tham gia (có một đội trưởng), sau đó tất cả các em HS trong lớp đều tham gia trò chơi (lớp trưởng là đội trưởng).
Trong vòng 1 phút, các bạn sẽ lắng nghe và ghi lại tất cả những tiếng động xung quanh mình. Ai ghi nhiều hơn, người đó sẽ thắng.
HS sẽ ghi lại tất cả những gì các em nghe thấy.
Đội trưởng thu các mảnh giấy lại, đếm và đọc lên những sự việc được ghi trong từng mảnh giấy cho cả lớp nghe.
- Ý nghĩa của trò chơi: Đây là trò chơi nhằm rèn luyện KN lắng nghe, một trong những KN quan trọng nhất để làm việc nhóm hiệu quả, phản ánh sự tôn trọng hay xây dựng ý kiến lẫn nhau giữa các thành viên. Khi chịu lắng nghe, chắc chắn bạn sẽ có nhiều thông tin để giải quyết vấn đề hiệu quả hơn.
- Các KN được hình thành và củng cố:
KN lắng nghe: Được hình thành trong hoạt động GV thông báo trò chơi và chọn ra đội chơi, HS lắng nghe tích cực để hiểu nội dung trò chơi và xác định đội của mình; hoặc hình thành qua hoạt động HS lắng nghe những tiếng động xung quanh mình.
KN giao tiếp và ứng xử: Được củng cố thông qua quá trình giáo tiếp giữa các em HS với nhau, giữa GV và HS trong quá trình thực hiện trò chơi.
KN lãnh đạo: Được hình thành khi đội trưởng điều khiển đội hoạt động, đội trưởng thu các tờ giấy và đọc lên các nội dung ghi trong đó.
II.1.2.2. Chiếu video “ quà tặng cuộc sống”
II.1.2.2.1.Những lưu ý khi tiến hành chiếu video “Quà tặng cuộc sống” 
GVCN cũng có thể sử dụng các đoạn video hay phim ngắn “Quà tặng cuộc sống” của chương trình VTV liên quan đến GD KNS cho HS để trình chiếu. Sau đó, cho HS thảo luận, phát biểu suy nghĩ, chính kiến của bản thân mình và rút ra bài học. Có thể cho các em nói lên suy nghĩ bằng lời nói hoặc viết vào giấy rồi tổng hợp lại.
Phương pháp này theo tôi đem lại hiệu quả GD rất lớn mà GVCN không phải “nói nhiều”, “giáo huấn nhiều”. Nên lựa chọn sử dụng những phim gần gũi liên quan với những KNS mà GV đang lựa chọn GD cho HS. Điều này là rất quan trọng vì nếu chọn sai nội dung thì việc GD sẽ giống như “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Mỗi giờ sinh hoạt, GVCN chỉ cần chiếu một đến hai đoạn video, không nên chiếu quá nhiều mà không để thời gian cho HS suy nghĩ, thảo luận.
 II.1.2.2.2.Một số đoạn video
* Đoạn video 1: Câu chuyện chiếc bình nứt[5]
Câu hỏi suy nghĩ, thảo luận về đoạn video 1
Sự khiếm khuyết có giá trị không?
Hình ảnh chiếc bình nứt tượng trưng cho ai trong cuộc sống?
Trong cuộc sống, khi gặp những khiếm khuyết của bản thân hay của người khác, chúng ta thường làm gì?
Ai sẽ đóng vai trò “người gánh nước” trong cuộc sống của bạn?
Em có suy nghĩ gì về việc chọn nghề liên quan đến khiếm khuyết của bản thân?
Các em HS đã thảo luận sôi nổi và suy nghĩ, đưa ra câu trả lời cho tất cả các câu hỏi trên. GV sẽ phân tích thêm nội dung, ý nghĩa của từng đáp án để các em hiểu rõ hơn từ đó rút ra được bài học cho bản thân và vận dụng vào cuộc sống.
Bài học rút ra t

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_xay_dung_mot_so_phuong_phap_giao_duc_ky_nang_song_cho_h.docx
  • docBia SKKN 2017.doc
  • docmuc luc sskn thuy dia.doc