SKKN Một số giải pháp giáo dục học sinh THPT cá biệt trong công tác chủ nhiệm

SKKN Một số giải pháp giáo dục học sinh THPT cá biệt trong công tác chủ nhiệm

“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [1]. Giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội, chính vì lẽ đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người không chỉ là sự nghiệp của toàn nhân loại nói chung mà còn là của toàn Đảng và toàn dân ta nói riêng. Đối với nước ta “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [2]. Tuy nhiên trong những năm gần đây mặt trái của nền kinh tế thị trường khiến cho một bộ phận người dân đặc biệt là giới trẻ có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí gây ra những hành động phạm pháp. Các tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào học đường như: HS nghiện games, nghiện hút (thuốc lá, ma túy), bài bạc, lô đề, trộm cắp, . Nhiều HS có lối sống tự do, buông thả, coi thường nền nếp, kỉ cương, vi phạm đạo đức, pháp luật. Những HS này gọi chung là HS cá biệt (HSCB). Số HS này đang có xu hướng gia tăng, làm đau lòng cha mẹ, đau đầu thầy cô, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự bình yên của mỗi tổ ấm gia đình cũng như sự phát triển chung của toàn xã hội.

Là một GV, tôi luôn ý thức được HSCB trong mỗi trường học là đối tượng mà nhà trường và GV phải lo lắng, quan tâm, đầu tư nhiều công sức và tâm huyết. Đã vậy gần như ở cấp học nào, khối lớp nào cũng có HSCB. Đặc biệt với HS cấp THPT ở độ tuổi giáp danh giữa trẻ em và người lớn với những biến đổi về tâm sinh lí, sức khỏe, nhận thức thì tính “cá biệt” của một bộ phận HS ở lứa tuổi này có thể gây hậu quả đáng tiếc nếu nhà trường và gia đình không có những biện pháp thích hợp để ngăn ngừa.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tôi đã đi sâu tìm tòi, nghiên cứu các giải pháp giáo dục HS đặc biệt là HSCB để tìm ra giải pháp tối ưu. Trong năm học 2016 – 2017 với cương vị là GVCN tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp giáo dục HS THPT cá biệt trong công tác chủ nhiệm” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.

 

doc 21 trang thuychi01 5651
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp giáo dục học sinh THPT cá biệt trong công tác chủ nhiệm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH THPT CÁ BIỆT TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
Người thực hiện: Nguyễn Thị Lê
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU ...............................................................................................
1. Lý do chọn đề tài 	.1 
2. Mục đích nghiên cứu 	.1
3. Đối tượng nghiên cứu 	.2
4. Phương pháp nghiên cứu 	.2
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 	2
1. Cơ sở lí luận của SKKN 	.2
1.1. Khái niệm HSCB 	.2
1.2. Một số biểu hiện hành vi của HSCB	.2
1.3. Ý nghĩa của việc giáo dục HSCB	.3
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN 	.3
3. Các SKKN đã áp dụng để giải quyết vấn đề 	.5
3.1. Khảo sát tình hình HSCB của lớp chủ nhiệm 	.5
3.2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn HS thành HSCB 	7
 3.3. Xác định rõ những yếu tố cần có của GVCN trong việc 
 giáo dục HSCB ..........................................................................
3.3.1. GVCN phải tâm huyết và trách nhiệm với HSCB 	9
3.3.2. GVCN phải biết lắng nghe và trò chuyện với HS, đặc biệt là HSCB ................................................................
3.3.3. GVCN phải có sự quan tâm động viên và định hướng kịp thời cho HSCB..................................................
3.4. Tin tưởng giao việc phù hợp với khả năng của HSCB .......
3.5. Giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho 
HSCB .........................................................................................
3.6. Tạo ra các sân chơi phù hợp cho HSCB .............................
3.7. Áp dụng biện pháp kỉ luật tích cực đối với tập thể lớp và HSCB .........................................................................................
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường ...............................................................
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ................................................................
1. Kết luận .....................................................................................
2. Kiến nghị ...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
5
5
7
9
9
10
10
11
13
13
14
16
17
17
17
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
HSCB
Học sinh cá biệt
2
HS
Học sinh
3
GV
Giáo viên
4
GVCN
Giáo viên chủ nhiệm
5
GVBM
Giáo viên bộ môn
6
BCH
Ban chấp hành
7
ĐTN
Đoàn thanh niên
8
HL
Học lực
9
HK
Hạnh kiểm
10
SL
Số lượng
11
TL
Tỉ lệ
12
VD
Ví dụ
13
CBGV – NV
Cán bộ giáo viên – Nhân viên
14
GD & ĐT
Giáo dục và Đào tạo
15
SKKN
Sáng kiến kinh nghiệm
16
SGK
Sách giáo khoa
17
THPT
Trung học phổ thông
I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [1]. Giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội, chính vì lẽ đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người không chỉ là sự nghiệp của toàn nhân loại nói chung mà còn là của toàn Đảng và toàn dân ta nói riêng. Đối với nước ta “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [2]. Tuy nhiên trong những năm gần đây mặt trái của nền kinh tế thị trường khiến cho một bộ phận người dân đặc biệt là giới trẻ có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí gây ra những hành động phạm pháp. Các tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào học đường như: HS nghiện games, nghiện hút (thuốc lá, ma túy), bài bạc, lô đề, trộm cắp, .... Nhiều HS có lối sống tự do, buông thả, coi thường nền nếp, kỉ cương, vi phạm đạo đức, pháp luật. Những HS này gọi chung là HS cá biệt (HSCB). Số HS này đang có xu hướng gia tăng, làm đau lòng cha mẹ, đau đầu thầy cô, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự bình yên của mỗi tổ ấm gia đình cũng như sự phát triển chung của toàn xã hội.
Là một GV, tôi luôn ý thức được HSCB trong mỗi trường học là đối tượng mà nhà trường và GV phải lo lắng, quan tâm, đầu tư nhiều công sức và tâm huyết. Đã vậy gần như ở cấp học nào, khối lớp nào cũng có HSCB. Đặc biệt với HS cấp THPT ở độ tuổi giáp danh giữa trẻ em và người lớn với những biến đổi về tâm sinh lí, sức khỏe, nhận thức thì tính “cá biệt” của một bộ phận HS ở lứa tuổi này có thể gây hậu quả đáng tiếc nếu nhà trường và gia đình không có những biện pháp thích hợp để ngăn ngừa.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tôi đã đi sâu tìm tòi, nghiên cứu các giải pháp giáo dục HS đặc biệt là HSCB để tìm ra giải pháp tối ưu. Trong năm học 2016 – 2017 với cương vị là GVCN tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp giáo dục HS THPT cá biệt trong công tác chủ nhiệm” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
	Qua đề tài này giúp:
- HS trở thành một công dân có ích cho đất nước.
- Biết tôn trọng chính bản thân mình.
- Hiểu được ý nghĩa của việc học từ đó có thêm lòng đam mê trong học tập và nghiên cứu.
- HS thấy được công lao to lớn của Thầy cô, cha mẹ từ đó có lòng trung thực, nhân ái và trở thành một con người đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
- Giúp một phần nhỏ các GV những người làm công tác giáo dục biết rõ vai trò quan trọng của mình và có thêm được giải pháp hợp lí trong sự nghiệp giáo dục.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Trong đề tài này tập trung nghiên cứu vào đối tượng HS có biểu hiện cá biệt là những em chưa ngoan, có nhiều vi phạm và những HS thường tự ti, trầm cảm trong trường THPT Triệu Sơn 6 năm học 2016 – 2017.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu, sách, các trang web về giải pháp giáo dục HS cá biệt, ... để hình thành cơ sở lý luận cho đề tài.
Phương pháp điều tra: Thực hiện tại các trường THPT trong địa bàn huyện.
Phương pháp quan sát: Quan sát hiện tượng HS vi phạm như: Mất trật tự có hệ thống trong giờ học, bỏ học, bỏ tiết, hỗn láo, vô lễ với thầy cô, lười học, thường xuyên nói tục, chửi bậy, nói dối với thầy cô và bố mẹ, hay đánh nhau với bạn trong lớp, trong trường, ...
Phương pháp thống kê toán học: Lập bảng thống kê, phân tích, xử lí số liệu của đề tài, giúp đánh giá vấn đề chính xác, khoa học.
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn, trò chuyện với HS và CBGV – NV trong trường và nhân dân trên địa bàn.
Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: Theo dõi hoạt động học tập, kĩ năng giao tiếp của HS nhằm tìm hiểu kỹ năng sống của các em.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SKKN:
1.1. Khái niệm HSCB [3]:
- Thuật ngữ HSCB để chỉ những HS có những nét cá tính riêng, có suy nghĩ và hành vi hoặc có những năng khiếu và sở thích đặc biệt khác với HS trong lớp.
- Gia đình những HS này là gia đình riêng biệt với cá thể hoặc nhóm HS trong những tình huống, những biện pháp khác biệt với chúng.
- Trong nhà trường GV cho rằng HSCB là những HS có những khiếm khuyết về đạo đức nhân cách trong quá trình giáo dục.
- Theo quan điểm giáo dục đúng đắn đối với loại HS có khiếm khuyết về đạo đức, nhân cách, nên thống nhất dùng khái niệm: HSCB.
1. 2. Một số biểu hiện hành vi của HSCB.
Những biểu hiện về mặt hành vi của những HS này thường là:
- Vi phạm nội quy của nhà trường, của lớp như: Mất trật tự có hệ thống trong giờ học, lười học bài, đi học muộn, ...
- Vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô, cha mẹ, hay nói tục chửi thề, ...
- Vi phạm pháp luật như: Đánh nhau, trộm cắp, trấn lột, cờ bạc, lô đề, ...
- Tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè, tiêu cực trong suy nghĩ, ....
1. 3. Ý nghĩa của việc giáo dục HSCB [3].
- Giáo dục HSCB trở thành HS tốt là một trong những nhiệm vụ vô cùng khó khăn của GVCN nhưng lại có ý nghĩa hết sức to lớn đối với bản thân HSCB, với nhà trường, với gia đình HS và xã hội.
- Theo điều tra, HSCB thường là những HS tháo vát, có những khả năng tốt về văn nghệ, thể thao, khả năng tổ chức... Vì vậy GVCN có thể giúp các em phát triển đúng hướng, phát huy tài năng, hoàn thiện nhân cách, đạo đức để trở thành một người công dân có ích.
- Đối với lớp: Nhiệm vụ giáo dục có kết quả đối với HSCB là một trong những điều kiện đảm bảo cho lớp học ổn định trật tự, nề nếp. Mọi thành viên khác của lớp đều có điều kiện học tập, tu dưỡng đạt kết quả tốt.
- Đối với cha mẹ HSCB: Thành công trong nhiệm vụ giáo dục HSCB của GVCN giúp gia đình HS tránh được sự bất hạnh, đem lại nguồn hạnh phúc lớn lao cho họ.
- Đối với xã hội: Thành công trong nhiệm vụ giáo dục HSCB của GVCN góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội và cung cấp cho xã hội những công dân tốt.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN:
- Trong những năm gần đây, chất lượng giáo dục toàn diện ở các trường phổ thông đã đạt được những kết quả khả quan. Đa số các HS đều có ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách của mình và phấn đấu học tốt. Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ thì tỉ lệ HS vi phạm các chuẩn mực đạo đức ở các mức độ khác nhau ngày càng tăng, nhiều vụ việc HS đánh nhau hội đồng rất dã man từ những mâu thuẫn, xích mích, lời qua tiếng lại trên facebook được tung lên mạng gây bức xúc dư luận, xã hội.
- Trường THPT Triệu Sơn 6 được đóng trên địa bàn xã Dân Lực – Huyện Triệu Sơn – Tỉnh Thanh Hóa, cùng với sự phát triển của xã hội nhiều trò chơi giải trí mới lạ mọc lên trên địa bàn này như: Game online, bi – a,  thu hút một lượng lớn HS của trường tham gia. Điều này kéo theo hiện tượng như: Lừa dối bố mẹ để xin tiền, ăn cắp vặt,  đến trường những HS này thường lơ là việc học, luôn tỏ ra là “sành điệu”, thích làm “đại ca”, hay thường bỏ tiết, trốn học, nghỉ học vô lí do, . Bên cạnh đó có không ít nhà trường, thầy cô giáo chỉ chú tâm dạy chữ, kiến thức văn hóa mà sao nhãng, lơ là, thiếu biện pháp giáo dục HSCB, HS đánh nhau dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
- Theo thống kê từ ban nề nếp của trường, số HSCB năm học 2016 - 2017 là 48 HS, trong đó có 20 HS thuộc khối 10; khối 11 có 15 HS và khối 12 là 13 HS. Hành vi cá biệt của các em được thể hiện qua bảng sau:
Hành vi cá biệt
Khối 10
Khối 11
Khối 12
SL
TL
SL
TL
SL
TL
- Vi phạm nội qui của Nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học bài, đi học muộn, .
17
83.5%
12
80%
10
77%
- Chơi điện tử, bỏ học, bỏ tiết, lừa dối cha mẹ, thầy cô, 
7
35%
5
33%
8
62%
- Vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô, cha mẹ, hay nói tục, chửi thề, 
5
25%
3
20%
3
23%
- Vi phạm pháp luật, đánh nhau, trộm cắp, trấn lột, cờ bạc, lô đề 
4
20%
4
27%
2
15%
- Tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè, hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ, 
2
10%
2
13%
1
7.7%
Bảng số liệu trên cho thấy số HS có hành vi vi phạm nhiều nhất là: Nghỉ học vô lí do, chửi thề, gây gổ đánh nhau, cờ bạc, lô đề. Đặc biệt hiện tượng đáng báo động hiện nay là tình trạng HS gây gổ đánh nhau, đây là những em chưa có ý thức trong học tập, thiếu sự quan tâm của gia đình, các em thường bỏ giờ, trốn học đi chơi bi – a, chơi game, la cà quán xá, do học yếu, ham chơi nên bị bạn bè xấu lôi kéo dẫn đến vi phạm các chuẩn mực đạo đức, thậm chí là vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, số HS có những hành vi vi phạm: Hút thuốc lá, chơi bài, lô đề chiếm một tỉ lệ đáng kể đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sư phạm.
Đầu năm học 2016 – 2017 tôi được phân công tiếp nhận chủ nhiệm lớp 11A2 do GVCN cũ nghỉ sinh. Để có một kế hoạch giáo dục cụ thể tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát tình hình cụ thể của 45 HS trong lớp từ nhiều kênh khác nhau, kết quả ban đầu thu được là: Tổng số 45 HS có 10 HS xếp loại HL khá; 27 HS xếp loại HL trung bình; 08 HS xếp loại HL yếu; có 30 HS xếp loại HK tốt; 08 HS xếp loại HK khá; 07 HS xếp loại HK trung bình; Đặc biệt lớp 05 HSCB với những biểu hiện hành vi như sau:
STT
Họ tên HSCB
Hành vi cá biệt
1
Lê Văn Dương
- Ngủ gật, hay đi học muộn, nghỉ học vô lí do
2
Lê Văn Hiếu
- Nói tục, chửi thề, mất trật tự trong lớp, đánh nhau
3
Hồ Văn Thanh
- Ngủ gật, bỏ tiết, lười học bài
4
Lê Hữu Thiện
- Nghiện games, lô đề, nghỉ học không có lí do
5
Nguyễn Thị Vân
- Tự ti, ngại tiếp xúc với bạn bè, thầy cô.
Từ thực trạng trên, khi nhận lớp chủ nhiệm tôi đã tìm tòi học hỏi thêm từ bạn bè đồng nghiệp, từ tài liệu sách báo, từ các bài tham luận, hội thảo, từ các SKKN được đăng tải trên mạng về lĩnh vực giáo dục HS chưa ngoan, HS có học lực yếu, HSCB,  để có kế hoạch giáo dục HSCB của lớp chủ nhiệm ngay từ đầu năm học. Cuối năm học, kết quả đạt được rất khả quan nên tôi xin chia sẻ cùng bạn bè đồng nghiệp “một số giải pháp giáo dục HS THPT cá biệt trong công tác chủ nhiệm” mà tôi đã áp dụng rất hiệu quả trong năm học.
3. CÁC SKKN ĐÃ ÁP DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
3.1. Khảo sát tình hình HSCB của lớp chủ nhiệm
Bước 1. Thu thập thông tin về HSCB:
Để giáo dục được HSCB, người GVCN cần nắm bắt thông tin mọi mặt về HS đó từ hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, quan hệ với mọi người xung quanh, với bạn bè, người thân đến sở thích, tâm tư nguyện vọng, ước mơ của các em. Để làm được điều này tôi đã tiến hành như sau:
- Tổ chức cho HS hoàn thành các thông tin theo mẫu sau:
Họ tên:
Đặc điểm tính cách nổi bật:
Điểm mạnh:
Điểm yếu:
Sở thích:
Ghét:
Mục tiêu, mong muốn:
Những thuận lợi, khó khăn, rào cản trong việc thực hiện mục tiêu, mong muốn:
 Những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực từ gia đình, bạn bè, môi trường sống, học tập:
 Bản thân cần sự giúp đỡ nào từ GV, bạn bè:
 Bản thân định sẽ làm gì để đạt được những mong muốn, mục tiêu của mình:
à Thông qua việc làm này HS có thể nhận thức về bản thân về những điểm mạnh điểm yếu cần khắc phục của mình. Đồng thời GV có thể nắm được thông tin cơ bản về cá tính của từng HS, giúp GV có cách tiếp cận phù hợp để giúp đỡ các em tiến bộ.
- Tìm hiểu thông tin về HSCB thông qua GVCN cũ và các GVBM:
Vì GVCN cũ của lớp là cô Lê Thị Hương đã nghỉ sinh sau khi kết thúc năm học lớp 10 của lớp A2. Lớp 11 tôi được phân công làm công tác chủ nhiệm thay thế. Để làm tốt nhiệm vụ của mình tôi đã trò chuyện với GVCN cũ và các GVBM của lớp để nắm bắt tình hình học tập và rèn luyện của HS, đặc biệt là các HSCB của lớp. Đây là nguồn cung cấp thông tin quý giá giúp tôi lập hồ sơ HS một cách chính xác và nhanh nhất.
- Thu thập thông tin HSCB thông qua bạn bè và gia đình:
Thông tin về HSCB có thể thu thập bổ sung thêm thông qua bạn bè. Rất nhiều điều mà GV không biết nhưng bạn bè lại biết. Khai thác được nguồn thông tin này GVCN mới có thể đưa ra giải pháp giáo dục HSCB hợp lí cho từng HS.
Thông tin về HSCB thu thập qua tiếp xúc, trò chuyện với gia đình HS cũng rất quý giá để GVCN lập hồ sơ HS. GVCN có thể nắm được về hoàn cảnh gia đình, đặc điểm của HS qua nhận định của cha mẹ HS để so sánh đối chiếu bổ sung cho những thông tin mình đã thu thập được
Bước 2. Phân loại HS cá biệt. 
Từ kết quả thu được, đi sâu vào tìm hiểu hành vi cá biệt của từng HS ở lớp học rồi tiến hành phân loại như sau:
Nhóm 1: Cá biệt do vi phạm nội qui của Nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học bài, đi học muộn, . (Gồm các HS: Lê Văn Dương, Lê Văn Hiếu, Hồ Văn Thanh, Lê Hữu Thiện).
Nhóm 2: Cá biệt do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học, bỏ tiết, lừa dối cha mẹ, thầy cô,  (HS: Lê Hữu Thiện).
Nhóm 3: Cá biệt do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô, cha mẹ, hay nói tục, chửi thề,  (HS: Lê Văn Hiếu);
Nhóm 4: Cá biệt do vi phạm pháp luật, đánh nhau, trộm cắp, trấn lột, cờ bạc, lô đề (HS: Lê Văn Hiếu, Lê Hữu Thiện ).
Nhóm 5: Cá biệt do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè, hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ ,  (HS: Nguyễn Thị Vân).
Bước 3: Lập hồ sơ về HSCB
Giáo dục HSCB không chỉ ngày một ngày hai là thu được kết quả mà cần phải có thời gian và kế hoạch cụ thể. Dựa vào các thông tin thu thập được ở trên và kết quả phân loại HSCB, tôi tiến hành lập hồ sơ từng HSCB, cụ thể hồ sơ gồm: 
+ Phiếu đặc điểm gia đình HS.
+ Phiếu theo dõi sự phát triển cá nhân từng HS qua từng tuần, tháng, học kì, năm học.
+ Các thông tin sâu thu thập được về HS.
+ Học bạ.
+ Số điện thoại liên hệ.
3.2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn HS thành HSCB.
Số HS có hành vi cá biệt không nhiều so với tổng số HS của toàn lớp, tuy nhiên nó lại có ảnh hưởng không nhỏ và dễ lây lan trong tập thể HS. Để tìm những nguyên nhân trên tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của 60 người là GVCN, GVBM, công tác quản lí và HS. Kết quả thể hiện ở bảng sau:
Bảng: Những nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi cá biệt của HS.
TT
Các nguyên nhân
Số ý kiến
Tỉ lệ
Xếp bậc
1
Gia đình, xã hội chưa quan tâm giáo dục các em đầy đủ
50
83.3%
1
2
Người lớn chưa gương mẫu
47
78%
2
3
Những biến đổi về tâm sinh lí lứa tuổi
42
70%
3
4
Quản lí giáo dục đạo đức của nhà trường chưa chặt chẽ
41
68.3%
4
5
Nội dung giáo dục đạo đức chưa thiết thực
39
65%
5
6
Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường
35
58.3%
6
7
Một bộ phận thầy cô chưa quan tâm giáo dục đạo đức cho HS
27
45%
8
8
Ảnh hưởng của sự bùng nổ thông tin, truyền thông
24
40%
9
9
Chưa có sự phối hợp tốt giữa các lực lượng giáo dục
32
53.3%
7
10
Sự quản lí giáo dục đạo đức của xã hội chưa đồng bộ
18
30%
12
11
Phim ảnh, sách báo không lành mạnh, các trò chơi trên mạng
21
35%
11
12
Nhiều đoàn thể xã hội chưa quan tâm đến giáo dục đạo đức.
17
28.3%
13
13
Sự tác động của pháp luật chưa nghiêm, chưa chặt chẽ
12
20%
14
14
Tệ nạn xã hội
23
38.3%
10
Bảng trên cho thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn HS thành HSCB, có thể chia thành các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân từ gia đình: Gia đình là cái nôi của sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Trình độ văn hóa, lối sống, phương pháp giáo dục có ảnh hưởng lớn đến nhân cách của trẻ. Thực tế hiện nay những HS có hành vi cá biệt thường ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ không có điều kiện quan tâm đến việc học hành của con cái, hoặc có những gia đình có điều kiện kinh tế tốt nhưng do bố mẹ nuông chiều, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất mà ít quan tâm đến đời sống tinh thần và những đặc điểm phát triển tâm sinh lí lứa tuổi của con cái. Bố mẹ chỉ lo làm giàu mà khoán trắng việc giáo dục con cái cho nhà trường. Bên cạnh đó, nhiều gia đình bố mẹ thường xuyên cãi vã hoặc li dị nhau . Sự thiếu gương mẫu của người lớn chính là điều kiện để trẻ học tập những thói hư tật xấu, là môi trường thuận lợi cho sự phát triển tình trạng HSCB.
- Nguyên nhân từ phía nhà trường: Do sự giáo dục của nhà trường còn nặng về kiến thức văn hóa, đôi khi lãng quên đi nhiệm vụ giáo dục con người “tiên học lễ hậu học văn”. Mặt khác năng lực của một số GVCN lớp còn hạn chế, chưa đi sâu đi sát từng HS để nắm bắt hoàn cảnh riêng của từng em, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em. Một số ít GV thậm chí cả cán bộ quản lí đôi lúc còn thiếu gương mẫu trong đạo đức, lối sống, chưa thực sự là “tấm gương sáng để HS noi theo”. Việc áp dục các phương pháp giáo dục đạo đức còn cứng nhắc, thậm chí sai nguyên tắc: Xem nhẹ yếu tố thuyết phục, thô bạo trong đối xử với HS, 
- Nguyên nhân từ xã hội: Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt Internet là kho tài nguyên vô tận, mang lại nhiều lợi ích cho con người nhưng nó cũng có mặt trái ảnh hưởng đến giới trẻ như: Phim ảnh khiêu dâm, đồi trụy, bạo lực, những câu chuyện trái với đạo đức thuần phong mỹ tục đã gieo vào lòng các em những suy nghĩ lệch lạc, bắt trước,  Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến HS trở thành HSCB.
- Nguyên nhân từ bản thân HS: Đó là những biến đổi tâm sinh lí lứa tuổi HS THPT. Do các đặc điểm tâm sinh lí tuổi dậy thì, tình cảm của các em chưa bền vững, không ổn định, khả năng làm chủ bản thân, bản lĩnh còn yếu trước những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài nên dễ phát sinh mặc cảm, sự bồng bột, cả tin

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giao_duc_hoc_sinh_thpt_ca_biet_trong_c.doc