SKKN Vận dụng phương pháp “ bàn tay nặn bột” vào dạy môn Khoa học lớp 5
Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng ở Tiểu học. Mục tiêu của môn khoa học lớp 4; 5 là giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về sự trao đổi chất; sự sinh sản của động vật, thực vật, đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu và các dạng năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Bước đầu hình thành và phát triển cho các em những kĩ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần gũi với đời sống sản xuất, nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp. Biết diễn đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên. Qua đó hình thành và phát triển những thái độ và hành vi như: Ham hiểu biết, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống, yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp. Có ý thức và hành động bảo vệ môi trường xung quanh.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “ BÀN TAY NẶN BỘT” VÀO DẠY MÔN KHOA HỌC LỚP 5 Người thực hiện: Trần Thị Liên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường TH Điện Biên 1, TP Thanh Hóa SKKN thuộc lĩnh vực: Khoa học THANH HÓA NĂM 2016 PHỤ LỤC Mục Nội dung Trang 1 Mở đầu 2 1.1 Lý do chọn đề tài 2 1.2 Mục đích nghiên cứu 3 1.3 Đối tượng nghiên cứu 3 1.4 Phương pháp nghiên cứu 4 2 Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 4 2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 4 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 5 2.3 Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 6 2.3.1 Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy 6 2.3.2 Tổ chức tốt các bước khi sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" 8 2.3.3 Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" 13 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường 16 3 Kết luận, kiến nghị 17 3.1 Kết luận 17 3.2 Kiến nghị KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT VÀO DẠY MÔN KHOA HỌC LỚP 5 1. MỞ ĐẦU 1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng ở Tiểu học. Mục tiêu của môn khoa học lớp 4; 5 là giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về sự trao đổi chất; sự sinh sản của động vật, thực vật, đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu và các dạng năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Bước đầu hình thành và phát triển cho các em những kĩ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần gũi với đời sống sản xuất, nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp. Biết diễn đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên. Qua đó hình thành và phát triển những thái độ và hành vi như: Ham hiểu biết, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống, yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp. Có ý thức và hành động bảo vệ môi trường xung quanh. Như chúng ta đã biết, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học là thay đổi cách truyền thụ một chiều sang "phương pháp dạy học tích cực" nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác và khả năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập vào thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui và hứng thú trong học tập. Coi học tập là quá trình kiến tạo, học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và sử lý thông tin, tự hình thành và chiếm lĩnh tri thức, từ đó trở thành con người tự tin, năng động, sáng tạo trong cuộc sống. " Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực và thích hợp cho việc dạy môn khoa học lớp 5 nói chung và đặc biệt có hiệu quả khi thực hiện dạy bài "Dung dịch" nói riêng. Thật vậy phương pháp bàn tay nặn bột trú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm hiểu biết, tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua việc tiến hành thí nghiệm, quan sát, .... Học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thiết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức và cũng chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Hay nói cách khác: “ Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học được tổ chức nhằm giúp học sinh tự phát hiện ra tri thức khoa học. Trên cơ sở vận dụng tất cả các giác quan của mình, kinh nghiệm, tri thức cũ và tham gia làm thực nghiệm khoa học. Như vậy, phương pháp "Bàn tay nặn bột" đề cao vai trò chủ thể tích cực, độc lập, sáng tạo của HS, hình thành cho các em phương pháp học tập đúng đắn. Các em học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động. Các em sẽ tiến bộ dần bằng cách tự nêu những thắc mắc, nghi vấn, hỏi đáp với bạn, trình bày quan điểm của mình, đối lập với các quan điểm của người khác, tranh luận, tạo ra môi trường học tập tích cực. " Bàn tay nặn bột" là một phương pháp mới, mang lại hiệu quả rất cao trong quá trình dạy học. Học sinh được tập làm các nhà khoa học tự mình nghiên cứu và chiếm lĩnh được các kiến thức, phương pháp này giúp các em ghi nhớ kiến thức lâu và sâu hơn, các em hiểu vấn đề rõ ràng hơn và không bị mơ hồ. Song phương pháp này còn mới, việc vận dụng đối với giáo viên chưa quen, còn lúng túng, giáo viên chưa hiểu hết phương pháp "Bàn tay nặn bột" và phương pháp này sử dụng hiệu quả trong môn nào, bài nào. Ngoài ra việc vận dụng phương "Bàn tay nặn bột" vào dạy khoa học lớp 5 còn giúp bạn bè đồng nghiệp hiểu rõ về bản chất, cách thức dạy theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" để dần dần áp dụng rộng hơn với các môn học khác. Vì vậy tôi chọn đề tài: Vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy môn khoa học lớp 5 để khẳng định những kết quả đạt được khi vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy học, đồng thời góp thêm một chút kinh nghiệm khi vận dụng phương pháp này. 1.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục tiêu của phương pháp "Bàn tay nặn bột" là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp "Bàn tay nặn bột" còn chú ý đến việc rèn luyện các kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết của học sinh. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" cho thấy cách thức học tập của học sinh là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận với thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu tìm tòi. Các hoạt động nghiên cứu tìm tòi gợi ý cho học sinh tìm kiếm để rút ra các kiến thức cho riêng mình, qua sự tương tác với các học sinh khác cùng lớp để tìm phương án giải thích các hiện tượng. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (Câu hỏi lớn), nêu giả thiết, nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu, đối chiếu các nhận định (giả thiết đặt ra ban đầu). Đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác, nếu không phù hợp học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành các thí nghiệm hoặc thử làm lại các thí nghiệm như các đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng, rút ra kết luận và giải thích cho các vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này học sinh luôn luôn phải động não, trao đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. Con đường tìm ra kiến thức của học sinh cũng đi lại gần giống với quá trình tìm ra các kiến thức mới của các nhà khoa học. Khi dạy bài "Dung dịch" sử dụng phương pháp dạy học theo kiểu "Bàn tay nặn bột" với mục đính làm cho học sinh tự mình chuẩn bị những đồ dùng cần thiết như: Cốc, nước, mì chính, muối, đường, dầu ăn..... sau đó tự mình dùng những chất đã chuẩn bị để tao ra những hỗn hợp theo ý muốn và các em tự mình quan sát kết quả vừa tạo ra để nhận xét các hiện tượng sảy ra. Dưới sự gợi ý của giáo viên thì học sinh sẽ chiếm lĩnh được kiến thức về đặc điểm của dung dịch và điệu kiện để tạo ra một dung dịch một cách nhẹ nhàng mà được khắc sâu, nhớ lâu. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Học sinh khối 5 trường Tiểu học Điện Biên 1 Thành phố Thanh Hóa (Năm học 2015 - 2016) 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp thí nghiệm, nghiên cứu - Phương pháp kiểm chứng - Phương pháp so sánh, thảo luận, quan sát -Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, - Phương pháp thu thập thông tin; - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu - Phương pháp đọc tài liệu. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn - Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học mà trong đó học sinh tiến hành các thao tác trí tuệ có sự hỗ trợ của một số công cụ và những giác quan để nghiên cứu tìm tòi, khám phá ra tri thức mới. Tất cả suy nghĩ và kết quả được học sinh mô tả lại bằng chữ viết, lời nói, hình vẽ. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" áp dụng hiệu quả nhất ở môn khoa học bởi vì: "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Phương pháp này chú trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuốc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một vấn đề khoa học, học sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả thiết ban đầu, tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm chứng, phân tích, so sánh, thảo luận, và đưa ra kết luận phù hợp. Phương pháp này kích thích sự tò mò, ham mê khám phá của học sinh. Tầm quan trọng của thí nghiệm trong khoa học: Thí nghiệm trong khoa học được đưa ra để xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết hoặc một dự đoán lý thuyết nào đó. Thí nghiệm có thể mô phỏng bất cứ lúc nào, tại bất cứ đâu, minh họa những khái niệm của các nguyên tắc và các định luật khoa học... Thí nghiệm khoa học nói chung là một thí nghiệm quy nạp, tức là nếu nhiều thí nghiệm đều đưa về một kết quả thì một kết luận chung sẽ được đưa ra. Trong tiến trình này, thí nghiệm thường đưa ra những giả thuyết xa hơn và từ đó dẫn đến sự phát triển của khoa học, kiến thức và hiểu biết. Trong quá trình làm thí nghiệm, học sinh được phát triển và thực hành những kĩ năng bằng tay khi tập trung làm chính xác thí nghiệm theo hướng dẫn, đặc biệt là đối với những thí nghiệm có những thiết bị mới. Trước đó, thí nghiệm phải được lên kế hoạch, do đó học sinh học được cách sắp xếp công việc một cách khoa học, cách phác thảo kế hoạch, cách thảo luận, làm việc nhóm những gì liên quan đến công việc chung ( như: nguyên vật liệu và thời gian làm việc,...). Học sinh cũng học được cách miêu tả thí nghiệm. Nhờ việc tiến hành thí nghiệm, học sinh có thể tự đem kiến thức nhất định đến cho mình. 2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a) Thuận lợi Giáo viên thường xuyên được tiếp thu các chuyên đề về các phương pháp dạy học mới đặc biệt là phương pháp "Bàn tay nặn bột" do trường tổ chức. Ngoài ra giáo viên thường xuyên dự giờ đồng nghiệp để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, trường đều tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn. Thư viện nhà trường có đầy đủ tranh ảnh, đồ dùng trực quan cần thiết để phục vụ cho việc dạy học môn khoa học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" Lớp được trang bị đầy đủ các thiết bị hỗ trợ dạy học hiện đại như máy chiếu, ti vi. Các em học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học. Giáo viên hứng thú với việc tiếp cận những phương pháp mới vào dạy học và đặc biệt là phương pháp "Bàn tay nặn bột" a) Hạn chế - Đối với giáo viên Phương pháp "Bàn tay nặn bột" mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị và thực hiện. Giáo viên chưa thật sự mạnh dạn áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào giảng dạy. - Đối với học sinh Một số học sinh thiếu sự chuẩn bị đồ dùng học tập cho tiết học và chưa tích cực tham gia các hoạt động trong giờ học khoa học. Khả năng tập trung của học sinh chưa cao, ít tò mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc và hầu như còn mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em được tìm hiểu, sự lập luận còn kém, các kỹ năng kỹ xáo thực hành còn vụng về, lúng túng. Khả năng ghi chép của các em chưa tốt, các em chưa có thói quen ghi lại những gì mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và mục đích của thí nghiệm còn kém. 2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1 Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy Mục đích của giai đoạn này là định hướng cho một giờ lên lớp theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Do đó, giáo viên phải tiến hành các hoạt động từ việc xác định mục tiêu, nội dung bài học đến việc lựa chọn tình huống xuất phát, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho bài dạy và đồng thời dự kiến những vấn đề nảy sinh và những khó khăn trong tiết dạy để có những biện pháp xử lý. Giai đoạn này có ý nghĩa định hướng, vì vậy việc tổ chức cho học sinh học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" phụ thuộc nhiều vào giai đoạn này. Phương pháp "Bàn tay nặn bột", yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là: tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em gặp rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Vì vậy buộc giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài dạy. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài dạy với những vấn đề thiết thực, gần gũi với cuộc sống hàng ngày và thực tế địa phương. Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, lô - gic, trọng tâm, có kiến thức thực tế, sâu rộng và các giải pháp liên hệ thực tế. + Sự chuẩn bị của học sinh - Học sinh cần chuẩn bị đủ đồ dùng học tập cá nhân hoặc chuẩn bị theo nhóm - Tìm hiểu trước nội dung bài học thông qua việc đọc tài liệu và sách giáo khoa +Sự chuẩn bị của giáo viên - Ngay từ đầu năm, bản thân tôi đã lên kế hoạch và lập nhật kí dạy học theo phương pháp "bàn tay nặn bột" với các bài cụ thể như sau: Số TT Bài Tên bài dạy - Nội dung kiến thức áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột 1 23 Gang, sắt, thép - Nguồn gốc của sắt, gang, thép và tính chất của chúng 2 24 Đồng và hợp kim của đồng - Tính chất của đồng: màu sắc, độ sáng, tính cứng và tính dẻo 3 25 Nhôm - Tính chất của nhôm 4 26 Đá vôi - Tính chất của đá vôi 5 27 Gốm xây dựng: Gạch, ngói - Tính chất của gạch, ngói 6 29 Thủy tinh - Tính chất của thủy tinh 7 30 Cao su - Tính chất đặc trưng của cao su 8 31 Chất dẻo - Tính chất của chất dẻo 9 32 Tơ sợi - Đặc điểm chính của tơ sợi tự nhiên và tơ sợi nhân tạo 10 35 Sự chuyển thể của chất - Điều kiện để một số chất có thể chuyển từ thể này sang thể khác 11 36 Hỗn hợp - Cách tạo ra hỗn hợp, đặc điểm của hỗn hợp - Cách tách các chất trong hỗn hợp 12 37 Dung dịch - Cách tạo ra một dung dịch, đặc điểm của dung dịch - Cách tách các chất trong dung dịch 13 38; 39 Sự biến đổi hóa học - Định nghĩa về sự biến đổi hóa học - Phân biệt sự biến đổi hóa hoc, lí học - Vai trò của nhiệt trong biến đổi hóa học 14 40 Năng lượng - Các vật có biến đổi vị trí, hình dạng, nhiệt độ nhờ có năng lượng 15 41 Năng lượng mặt trời - Tác dụng của năng lượng mặt trời 16 46 ;47 Lắp mạch điện đơn giản - Lắp được mạch điện thắp sáng đơn giản - Phát hiện vật dẫn điện hoặc cách - Xác định mục tiêu bài học: Giáo viên cần phải xác định được những mục tiêu cơ bản về kiến thức, kĩ năng, thái độ mà học sinh cần đạt được sau bài học. Việc xác định đúng trọng tâm bài học thì việc tổ chức cho học sinh học tập theo quy trình sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" mới tiến hành đúng hướng và đạt kết quả tốt. - Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Từ mục tiêu bài học, giáo viên lựa chọn các vật liệu, đồ dùng dạy học như: các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm, tài liệu cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, điều kiện của nhà trường và của địa phương. Đây là điều kiện thuận lợi để học sinh trực tiếp làm thí nghiệm trên đối tượng thật, tạo điều kiện cho các em phát huy tối đa các giác quan khác nhau tiếp xúc với đối tượng. Từ đó hình thành biểu tượng đầy đủ về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Bên cạnh vật liệu, đồ dùng dạy học được lựa chọn phải đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Việc chuẩn bị các vật liệu, đồ dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng. Đối với phương pháp "Bàn tay nặn bột", nếu không có đồ dùng dạy học thì không thể tiến hành dạy được. - Chuẩn bị hình thức dạy học: Có thể dạy trong, ngoài lớp học và dạy theo nhóm. - Chuẩn bị điều kiện dạy học: Trước khi dạy học giáo viên yêu cầu học sinh kê bàn ghế hình chữ U hoặc kê theo nhóm để thuận tiện cho học sinh làm thí nghiệm và học theo nhóm. - Lập kế hoạch tổ chức học sinh học tập theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Kế hoạch cần được thể hiện một cách chi tiết qua việc soạn giáo án. Trong giáo án, cần phân định rõ tiến trình của bài học bằng những hoạt động của giáo viên và học sinh, xác định mục đích, nội dung đánh giá, lựa chọn tình huống xuất phát. Tình huống xuất phát thường là một câu hỏi và cần đảm bảo những yêu cầu sau: + Câu hỏi thường mang tính chất mở hoặc nửa mở, phù hợp với mục tiêu bài học và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, sao cho các em có khả năng giải quyết. + Có tác dụng khiêu gợi trí tò mò và ham hiểu biết khoa học, kích thích các em suy nghĩ và tiến hành giải quyết để đem lại những hiểu biết. + Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, hạn chế những từ ngữ mang tính chất khái niệm mà các em chưa biết, đối với những câu hỏi khó giáo viên nên tìm từ ngữ khác thay thế sao cho vừa đảm bảo học sinh hiểu được mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa của nó. + Khi nêu câu hỏi phải đảm bảo cho tất cả học sinh nghe và biết được mình cần phải làm gì. - Việc lập kế hoạch tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nếu giáo viên chuẩn bị chu đáo thì hoạt động dạy học trên lớp diễn ra suôn sẻ và hiệu quả hơn. Kế hoạch cần được thể hiện một cách chi tiết qua việc soạn giáo án. 2.3.2 Tổ chức tốt các bước dạy khi sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" Tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Giáo viên và học sinh tiến hành theo 5 bước sau đây: Bước 1: Tình huống xuất phát và nêu vấn đề Bước này là sự xuất phát, là sự khởi điểm của một tiết học, có tác dụng kích thích sự tò mò,muốn tìm hiểu khám phá, gây hứng thú học tập, đồng thời đặt ra nhiệm vụ cho học sinh dưới hình thức: Giáo viên đưa ra câu hỏi, học sinh đi tìm câu trả lời. Bằng khả năng phán đoán, suy luận cùng các việc huy động vốn sống, vốn kinh nghiệm, các cá nhân học sinh đưa ra những hiểu biết ban đầu của mình về vấn đề mà giáo viên đặt ra. Bước này nên để cho học sinh làm cá nhân vì những lý do sau đây: - Đối với giáo viên: + Chuẩn bị tình huống xuất phát để tung ra cho học sinh + Biết được mức độ nhận thức của từng cá nhân để tác động đến từng đối tượng học sinh một cách thích hợp ngay trong tiết học. + Kết hợp các giờ học trước và giờ học sau để làm phương tiện đánh giá sự tiến bộ của từng học sinh. - Đối với học sinh + Học sinh nào cũng phải tiến hành suy nghĩ để ghi chép những hiểu biết của mình về bài học rồi ghi những suy nghĩ đó vào vở thí nghiệm. Những hiểu biết cá nhân có tác dụng làm cho các em ý thức được rằng cần phải tiến hành nghiên cứu để kiểm tra xem đúng hay sai. Đưa những hiểu biết của mình trước nhóm để xem các bạn đánh giá như thế nào về ý kiến của mình, qua đó diễn ra sự tranh luận trong nhóm. + Biểu tượng ban đầu giúp các em so sánh và đối chiếu với biểu tượng mới (biểu tượng chuẩn) sau khi tiến hành nghiên cứu. Biểu tượng ban đầu dù chỉ một phần rất ít nhưng cũng làm cho các em vui vì thấy rằng mình có đóng góp một phần trong bài học. Vì vậy tạo cho các em hứng thú học tập hơn. Sau đây, tôi xin nêu ra một số câu hỏi nêu vấn đề như sau : Khoa học 5 : + Bài 40 : “Sự sinh sản của ruồi” - Hãy nêu hiểu biết của em về sự sinh sản của ruồi ? + Bài 8: "Vệ sinh tuổi dậy thì" - Chúng ta cần làm gì để vệ sinh thân thể ở tuổi dậy thì? + Bài 26: "Đá vôi" - Theo em đá vôi có những tính chất gì? + Bài 37: "Dung dịch" - Cho một ít muối vào nước thì hiện tượng gì sẽ sảy ra? + Bài 49 : “Sự sinh sản ở người” - Em bé được hình thành như thế nào ? + Bài 51: " Cơ quan sinh sản của thực vật có hoa"- Em biết gì về nhị và nhụy của hoa ; hoa có cả nhị và nhụy ? + Bài 52: "Sự sinh sản của thự
Tài liệu đính kèm:
- skkn_van_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_vao_day_mon_khoa_h.docx