SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc khai thác kênh hình vào dạy học phân môn địa lí ở lớp 4B trường Tiểu học Nga Thành
Như chúng ta đã biết sự nghiệp giáo dục có vị trí quan trọng trong chiến lược xây dựng con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.Mục tiêu giáo dục Tiểu học hiện nay là giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện. Do đó, cần có sự đổi mới trong giáo dục, cụ thể như đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, Tuy nhiên, hiệu quả giáo dục trong những năm vừa qua vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay. Trong mỗi môn học, mỗi lĩnh vực kiến thức ở chương trình Tiểu học, học sinh đều gặp phải khá nhiều khó khăn. Nếu người giáo viên không tâm huyết, không trăn trở với nghề để tìm ra biện pháp tốt nhất giúp học sinh có nhu cầu học thì các em thường tiếp thu thụ động dẫn đến ngại học, ghi nhớ một cách máy móc nên không khắc sâu được các kiến thức, kĩ năng đã học. Điều đó được thể hiện rất rõ trong dạy - học môn Lịch sử và Địa lí, đặc biệt là phân môn Địa lí. Mà cụ thể hơn phân môn địa lí lớp 4 là một môn học mới trong chương trình Tiểu học. Không chỉ dừng lại ở việc mô tả các sự vật hiện tượng địa lí trên bề mặt Trái dất mà còn giải thích, phân tích, so sánh tổng hợp các yếu tố địa lí, cũng như giúp học sinh thấy được mối quan hệ giữa chúng với nhau. Đồng thời nó còn giáo dục các em việc phát hiện, khai thác, sử dụng, bảo vệ và cải tạo tài nguyên thiên nhiên, môi trường một cách hợp lí. Qua đó giáo dục các em lòng yêu và tự hào về quê hương đất nước, có ý thức bảo vệ quê hương đất nước, góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho các em.
1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết sự nghiệp giáo dục có vị trí quan trọng trong chiến lược xây dựng con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.Mục tiêu giáo dục Tiểu học hiện nay là giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện. Do đó, cần có sự đổi mới trong giáo dục, cụ thể như đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, Tuy nhiên, hiệu quả giáo dục trong những năm vừa qua vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện nay. Trong mỗi môn học, mỗi lĩnh vực kiến thức ở chương trình Tiểu học, học sinh đều gặp phải khá nhiều khó khăn. Nếu người giáo viên không tâm huyết, không trăn trở với nghề để tìm ra biện pháp tốt nhất giúp học sinh có nhu cầu học thì các em thường tiếp thu thụ động dẫn đến ngại học, ghi nhớ một cách máy móc nên không khắc sâu được các kiến thức, kĩ năng đã học. Điều đó được thể hiện rất rõ trong dạy - học môn Lịch sử và Địa lí, đặc biệt là phân môn Địa lí. Mà cụ thể hơn phân môn địa lí lớp 4 là một môn học mới trong chương trình Tiểu học. Không chỉ dừng lại ở việc mô tả các sự vật hiện tượng địa lí trên bề mặt Trái dất mà còn giải thích, phân tích, so sánh tổng hợp các yếu tố địa lí, cũng như giúp học sinh thấy được mối quan hệ giữa chúng với nhau. Đồng thời nó còn giáo dục các em việc phát hiện, khai thác, sử dụng, bảo vệ và cải tạo tài nguyên thiên nhiên, môi trường một cách hợp lí... Qua đó giáo dục các em lòng yêu và tự hào về quê hương đất nước, có ý thức bảo vệ quê hương đất nước, góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho các em. Bản thân tôi, với vai trò là người trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học là hoạt động không thể thiếu của người giáo viên trong quá trình dạy học. Trong những năm gần đây, việc sử dụng đồ dùng dạy học đã được các cấp quản lý và đội ngũ giáo viên quan tâm, thực hiện, bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn gặp không ít khó khăn và chưa đạt được kết quả như mong đợi. Là một giáo viên Tiểu học rất tâm huyết và luôn có trách nhiệm cao với nghề, tôi luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu để tìm mọi biện pháp tốt nhất giúp học sinh học tập có hiệu quả nhất. Qua mười mấy năm dạy học, tôi đã dày công nghiên cứu, học hỏi và áp dụng các biện pháp dạy học, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm quý giá, trong đó có những kinh nghiệm để dạy tốt phân môn Địa lí. Bởi vậy tôi muốn giới thiệu, chia sẻ “Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc khai thác kênh hình vào dạy học phân môn địa lí ở lớp 4B trường Tiểu học Nga Thành”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm “Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc khai thác kênh hình vào dạy học phân môn địa lí ở lớp 4B trường Tiểu học Nga Thành” nhằm tìm hiểu thực trạng việc dạy - học phân môn Địa lí 4, trên cơ sở đó áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài này sẽ nghiên cứu, tổng kết về một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn Địa lí ở lớp 4B trường Tiểu học Nga Thành. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: 4.1. Phương pháp nghiên cứu cơ sở lý luận: Nghiên cứu, tìm hiểu để nắm vững nội dung chương trình, phương pháp và các hình thức dạy học, yêu cầu của môn học thông qua các tài liệu như SGK Lịch sử và Địa lí 4; Sách giáo viên, Thiết kế bài dạy Lịch sử và Địa lí 4; Sách Phương pháp dạy học các môn ở Tiểu học, 4.2. Phương pháp quan sát Quan sát qua dự giờ đồng nghiệp để đánh giá năng lực, kinh nghiệm của giáo viên, quan sát quá trình học tập của học sinh để hình thành kiến thức cho bài học. 4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin Điều tra qua các giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình 4; qua sổ Theo dõi chất lượng giáo dục, qua học sinh và các loại tài liệu học tập của học sinh. 4.4. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu Thống kê kết quả khảo sát, kết quả học tập của học sinh qua các bài kiểm tra, bài khảo sát... 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng, tư duy của các em còn mang tính khái quát. Khi khái quát các sự vật hiện tượng, các em thường dựa vào chức năng và công dụng của sự vật hiện tượng như: sơ đố, biểu đố, bản đồTrên cơ sở này các em tiến hành nhận xét, phân loại, phân tích, đánh giá, so sánh,tổng hợpTuy nhiên các hoạt động phân tích, tổng hợp, còn sơ đẳng. Các em thường gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả, chưa biết cách suy luận, chưa chú ý đến việc thể hiện sự kết nối giữa tranh ảnh và bản đố, biểu đồ Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam.Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Địa lí có vị trí quan trọng, vì: - Các kiến thức, kĩ năng của môn Địa lí ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sốngchúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở Tiểu học . - Môn Địa lí góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề: nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo. Nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học. Dạy học Địa lí chiếm vai trò quan trọng nhằm góp phần hình thành và phát triển ở học sinh thói quen ham hiểu biết, yêu thiên nhiên đất nước con người, có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên. Vì vậy, việc dạy học Địa lí không những cung cấp cho học sinh những kiến thức địa lí thuần túy mà còn phải hình thành, phát triển cho các em các kĩ năng và năng lực tự học. Đó là những nhiệm vụ song song và có tầm quan trọng như nhau. Để đạt được mục tiêu nói trên, người giáo viên cần có những phương pháp dạy học thích hợp để giúp cho học sinh không những nắm vững kiến thức địa lí, rèn luyện kĩ năng, mà còn giáo dục thái độ, phát triển nhân cách, khơi gợi tính tự giác tích cực học tập của học sinh. Đó là phương pháp dạy - học tích cực. Hay nói cách khác đó là quá trình làm việc tích cực của thầy và trò để đem lại hiệu quả cao nhất. 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Bước lên lớp 4 là học sinh đã bước sang giai đoạn hai của quá trình giáo dục ở Tiểu học, học sinh được làm quen với các môn học mới như Khoa học, Lịch sử và Địa lí nên các em gặp nhiều bỡ ngỡ và khó khăn, đặc biệt với phân môn Địa lí. Bên cạnh đó, đa số học sinh lớp 4 của trường Tiểu học Nga Thành đều thuộc con em gia đình làm nghề nông, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá thấp, đầu tư cho việc học rất hạn chế Hậu quả là sách vở, đồ dùng học tập của các em chuẩn bị chưa kịp thời, một số em không có đủ sách giáo khoa thì giáo viên đã phải mượn sách cũ ở thư viện trường cho các em học. Trong học tập một số em khá nhút nhát, rụt rè, tiếp thu chậm và thụ động, thời gian tự học ở nhà quá ít vì các em còn phải tham gia lao động cùng với gia đình. Bên cạnh đó, thời lượng dành cho phân môn Địa lí theo quy định là còn ít (1 tiết/ tuần) nên học sinh được học phân môn rất ít thời gian.Trong dạy học vẫn còn gặp những vấn đề sau: 2.2.1.Đối với giáo viên: Đa số GV điều tận tâm trong công tác giảng dạy, chăm lo đến việc học tập của học sinh nhưng vẫn còn một số hạn chế sau: Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với bộ môn làm cho một số HS nhàm chán không tích cực trong giờ học . GV chưa thực sự khai thác hết nội dung kênh hình trong từng bài học, chưa chú ý đến việc thể hiện sự kết nối giữa tranh ảnh và bản đồ trong một số bài . Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng tranh ảnh đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế , ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của HS . Một số giáo viên chưa nắm được tác dụng của hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa nói chung và bản đồ (lược đồ )nói riêng với nội dung mỗi bài dạy mới chỉ xem đó là những hình minh họa cho hệ thống kênh chữ. Việc khai thác và sử dụng bản đồ (lược đồ) của giáo viên trong từng tiết dạy chưa nhiều,thường hay chú trọng trong các tiết thao giảng,các tiết có người dự giờ, điều này ảnh hưởng đến kỹ năng sử dụng, còn coi nhẹ việc sử dụng dồ dùng dạy học.Chưa nắm vững hoặc chưa hiểu rõ sử dụng lúc nào thì đạt hiệu quả, mà quan trọng là hướng dẫn HS tìm hiểu gì và tìm hiểu như thế nào mới quan trọng. Một số GV kỹ năng sử dụng bản đồ (lược đồ)chưa cao nên ảnh hưởng đến khả năng phân biệt các loại bản đồ, tỉ lệ, bảng chú giải và các đối tượng địa lí được thể hiện. Vì thế thường lúng túng khi sử dụng hoặc khai thác chưa hết thông tin để phục vụ cho bài dạy. Giáo viên đôi khi rất ngại đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy vì cho rằng điều đó rất mất thời gian hoặc chưa thành thạo khi sử dụng vi tính nên rất lúng túng trong việc lập kế hoạch bài dạy, thiết kế giáo án và thiết kế giáo án để trình chiếu chỗ nào. Một số giáo viên không chỉnh sửa cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. 2.2.2. Đối với học sinh: Trình độ tiếp thu của HS không đồng đều, một bộ phận không nhỏ HS yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. Một số HS lười học, chán học không tập trung trong giờ học . Nga Thành là vùng nông thôn, ít gia đình có điều kiện tiếp xúc với công nghệ thông tin tại gia đình. Phần lớn học sinh là con em gia đình lao động nghèo. Ngoài giờ học, các em phải phụ giúp gia đình làm việc nên không có thời gian xem bài ở nhà . Các em có thói quen quan sát kênh hình như là xem tranh thường thức mĩ thuật, Chưa nhận rõ chức năng của kênh hình là nguồn tri thức được chú trọng hơn chức năng minh họa cho kênh chữ . Đa số HS chưa hiểu, chưa biết đọc và khai thác kiến thức bài học thông qua bản đồ (lược đồ) kênh hình, kênh chữ. 2.2.3. Kết quả của thực trạng trên: Năm học 2016 – 2017 tôi được phân công dạy lớp 4B trường Tiểu học Nga Thành. Tôi đã tiến hành thử nghiệm dạy học môn Địa lý lớp 4 theo các phương pháp. Tôi đã tiến hành kiểm tra (Đề bài ở phụ lục II- trang 1) Kết quả thu được như sau: Kết quả khảo sát chất lượng môn địa lý tháng 10 năm 2016: Sĩ số HTT HT Chưa hoàn thành SL % SL % SL % 30 3 10 12 40 15 50 Qua kết quả trên cho thấy chất lượng học Địa lí còn quá thấp. Trong quá trình dạy học giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học là một trong những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học Địa lí. Hiện nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một điều tất yếu. Khi các em vừa tìm hiểu kiến thức bài học thông qua sách giáo khoa lại vừa được kết hợp xem những tranh ảnh, những đoạn phim vô cùng sinh động về địa lý giới hạn, đặc điểm tự nhiên, đặc biệt hơn nữa là các em được ngắm nhìn những hình ảnh thực về phong cảnh tuyệt đẹp, về những con người, về thiên nhiên của những vùng đang học thông qua những hình ảnh sinh động mà trong các tiết học thông thường các em ít được quan sát sẽ khiến giờ học trở nên sống động hơn. Các em chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, hiệu quả cao hơn. Các em mạnh dạn, tự tin, thích thú hơn khi tham gia vào quá trình tìm hiểu kiến thức. Tạo được môi trường học tập thân thiện giữa giáo viên và học sinh. Tạo được sự chờ đợi, hứng khởi cho các em khi sắp được học môn Địa lí. Trước thực trạng trên, tôi tiến hành đi sâu nghiên cứu, tìm kiếm và áp dụng các giải pháp để giúp đỡ học sinh học tập sao cho hiệu quả nhất để góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục hiện nay. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên cần tích cực nghiên cứu để nắm vững kiến thức địa lí Việt Nam và thế giới, đặc biệt là nội dung chương trình Địa lí lớp 4. Muốn dạy đúng, đủ kiến thức Địa lí 4, trước hết người giáo viên cần nắm vững mục tiêu của chương trình, nội dung chương trình sách giáo khoa và cao hơn nữa là nắm được các kiến thức cơ bản của địa lí Việt Nam và thế giới. Trước hết, người giáo viên cần phải không ngừng nghiên cứu các tài liệu để nắm vững mục tiêu chương trình Địa lí 4, cụ thể là: - Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí đơn giản ở các vùng chính trên đất nước ta. - Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát sự vật, hiện tượng; Thu thập, tìm kiếm tư liệu địa lí từ các nguồn khác nhau; Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp; Nhận biết đúng các sự vật, hiện tượng địa lí; Trình bày lại kết quả học tập bằng hình vẽ, lời nói, sơ đồ; Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. - Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen: Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh; Yêu thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam; Tự hào, tôn trọng, giữ gìn và phát huy một số truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ các di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh gần gũi với các em Ngoài nắm vững mục tiêu chương trình, nội dung chương trình Địa lí 4, người giáo viên muốn dạy hay, dạy giỏi thì còn cần nắm vững các kiến thức cơ bản của địa lí Việt Nam và thế giới. Có nắm vững các kiến thức đó thì người giáo viên mới có cái nhìn tổng thể, toàn diện về địa lí và có thể lí giải chính xác nhất những băn khoăn, thắc mắc của học sinh. 2.3.2. Giải pháp 2: Đổỉ mới phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học Mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Vấn đề đặt ra là ta phải biết phối kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt để phát huy những ưu điểm, hạn chế thấp nhất các nhược điểm của các phương pháp dạy học. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học cần phải theo hướng lấy học sinh làm trung tâm để phát huy tích tích cực của người học. Để thực hiện các yêu cầu trên trong dạy học, tôi thường tổ chức tiết học theo quy trình sau: - GV hoặc HS đặt ra vấn đề cần giải quyết trong bài thông qua các tình huống có vấn đề hoặc tìm hiểu kinh nghiệm của học sinh có liên quan đến nội dung bài. - Tổ chức cho học sinh tìm tòi, khai thác các kiến thức trong SGK, tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, vốn hiểu biết của bản thân Qua đó các em sẽ nhanh chóng nắm được các sự vật, đối tượng, hiện tượng địa lí của bài học. - Trên cơ sở các hình ảnh về địa lí đã được hình thành, GV đặt ra các câu hỏi, đưa ra các bài tập, và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học (nhóm, cá nhân, cả lớp) giúp học sinh bước đầu biết so sánh các điểm giống, khác nhau, phân tích các đặc điểm, tổng hợp các nét chung của sự vật, hiện tượng địa lí... - Từ những hiểu biết trên, giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày dưới các hình thức khác nhau (nói, kể, viết, vẽ) về một sự vật, hiện tượng địa lí sinh động và chính xác; đồng thời các em cũng biết vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống trong việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, bảo vệ di sản văn hoá, danh lam, thắng cảnh. Như vậy, quá trình dạy - học phải lấy hoạt động của người học làm trung tâm, mọi hoạt động của thầy đều hướng vào việc tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi, phát hiện, khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năngcho học sinh. Qua đó ta có thể nói thầy và trò chính là hai nhân tố trung tâm của quá trình dạy - học. 2.3.3. Giải pháp 3: Rèn kỹ năng đọc và chỉ bản đồ, lược đồ, bảng số liệu: Để có được những tài liệu phục vụ cho“ trực quan sinh động” ấy, giáo viên có thể sưu tầm từ nhiều nguồn như sách, báo, đài, vô tuyến đặc biệt là trên mạng Internet. Khi sử dụng những tài liệu như tranh, ảnh, sơ đồ làm trực quan tôi thấy trình bày dưới dạng trình chiếu trên màn hình mang lại hiệu quả nhất, gây hứng thú học tập cho các em nhất. Trong mỗi tiết học của môn Địa lí các em đều phải sử dụng bản đồ, lược đồ, vì bản đồ, lược đồ được sử dụng như là nguồi cung cấp kiến thức, là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác kiến thức Địa lí, học sinh phải biết đọc các kí hiệu trên bản đồ, lược đồ, hiểu được ý nghĩa màu sắc được biểu thị trên bản đồ, lược đồ, xác định được các yếu tố Địa lí trên bản đồ. ví dụ như : Biên giới o Thành phố, thị xã ¤ Thủ đô Dãy núi ¬ Nhà máy thủy điện Các kí hiệu về khoáng sản như : n Than đá Thiếc Sắt Trước tiên phải cho học sinh nắm chắc được cách đọc bản đồ, lược đồ thông qua các bước : +Xác định vị trí trên bản đồ. + Học thuộc các ký hiệu quy định trên bản đồ.Ký hiệu về màu sắc, hình ảnh + Cách chỉ bản đồ: Ví dụ 1: Khi dạy bài 1“Dãy Hoàng Liên Sơn”, trước khi vào bài tôi cho các em quan sát bản đồ địa lí tự nhiên Việt Nam, tìm hiểu cách phân tầng địa hình ở bản đồ thể hiện qua màu sắc (địa hình càng cao, nhiều núi thì màu càng đỏ đậm, địa hình bằng phẳng ở đồng bằng thì màu xanh lá cây). Khi học sinh đã hiểu và có thể đọc được bản đồ, các em sẽ tự nhận xét và rút ra kết luận: Hoàng Liên Sơn là dãy núi cao và đồ sộ nhất nước ta. Sau đó, tôi đã tổ chức cho các em tự tìm tòi, khám phá các dữ liệu trong bài để tìm minh chứng cho kết luận trên qua sách giáo khoa, các hình ảnh minh họa trên màn hình để củng cố và kiểm chứng nội dung bài, khuyến khích phát triển tinh thần ham học hỏi, tìm tòi, khám phá và tự học, giúp học sinh quen dần với cách học mới. Qua đó tôi thấy các em rất hứng thú với cách học này và nắm nội dung bài học rất nhanh, chủ động, tích cực. Ví dụ 2: Khi dạy bài 11 “Đồng bằng Bắc Bộ” Hướng dẫn xác định hướng gió, hướng núi chính trên bản đồ. Đầu tiên tôi hướng dẫn học sinh nắm được phương hướng của bản đồ là: Đầu phía trên bản đồ là hướng Bắc Đầu phía dưới bản đồ là phía Nam. Bên phải bản đồ là hướng Đông. Bên trái bản đồ là hướng Tây. Muốn hướng dẫn học sinh xác định vị trí của con sông Cầu, sông Đuống, sông Thái BìnhTrên“lược đồ đồng bằng Bắc Bộ”ta phải xác định từ đầu nguồn xuống cuối nguồn của một dòng sông. Sau đó hướng dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu: Hãy chỉ vị trí của đồng bằng Bắc Bộ trên bản đồ Địa lí tự nhiên Việt Nam? Tìm trên hình 1( SGK – trang 98): Lược đồ đồng bằng Bắc Bộ. GV yêu cầu HS thảo luận nhóm 2: Quan sát lược đồ trên máy chiếu và lược đồ trong SGK và trả lời các câu hỏi: H. Chỉ vị trí của đồng bằng Bắc Bộ trên hình 1 ? H. Tìm và chỉ sông Hồng và sông Thái Bình và một số sông khác của đồng bằng Bắc Bộ trên lược đồ, bản đồ ? (Hình 1 - Trang 2-phụ lục II ) - Học sinh báo cáo kết quả bằng cách chỉ và nêu trên máy chiếu. -Giáo viên chốt lại kiến thức và chạy hiệu ứng cho học sinh quan sát. Với những bản đồ, lược đồ đã cũ hoặc lỗi thời, khi cần khai thác kiến thức cho bài học, tôi thường xuyên khai thác các bản đồ mới nhất, chuẩn nhất từ Thư viện tư liệu giáo dục trên mạng Internet để học sinh quan sát, tìm hiểu trên màn hình. Ví dụ 3: Khi dạy bài 5“Tây Nguyên” Ngoài bản đồ, lược đồ ra khi học Địa lý các em còn phải chú ý đến các bảng số liệu. Đối với các bảng số liệu, học sinh không phải học thuộc mà quan trọng nhất ở đây là các em biết và hiểu được ý nghĩa của chúng để có thể tự luận, so sánh, đối chiếu, phân tích các số liệu. Tôi yêu cầu học sinh thực hiện: - Quan sát hình 1 (Bài 5 - trang 82): Lược đồ các cao nguyên ở Tây Nguyên. - GV yêu cầu HS thảo luận nhóm 4:Quan sát lược đồ trên máy chiếu và trả lời các câu hỏi: Sau khi học sinh tìm hiểu xong lược đồ trên. Giáo viên bồi dưỡng cho HS năng lực so sánh, đối chiếu, phân tích các số liệu. Giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với bảng số liệu theo các bước sau: Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bảng số liệu. Bước 2: Đọc tên bảng số liệu. Bước 3: Hiểu các giá trị được biểu hiện ở 2 trục : trục dọc và trục ngang. Bước 4: Đọc các số tương ứng trên 2 trục. Bước 5: So sánh các cột và rút ra kết luận. Tôi trình chiếu bảng số liệu (trang 83): Độ cao của các cao nguyên Cao nguyên Độ cao trung bình Kon Tum 500m Đắc Lắk 400m Lâm V
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_viec_khai_thac_kenh.doc