SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông
Dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông là một quá trình sư phạm đa dạng, phức tạp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Những hoạt động đó nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy lịch sử, qua đó giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách học sinh. Cũng như các môn học khác ở trường THPT (trung học phổ thông), môn Lịch sử có nhiệm vô quan trọng trong việc hướng tới đào tạo một thế hệ trẻ trở thành người làm chủ nước nhà, có trình độ, có văn hoá, đáp ứng những nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt. Song trên thực tế, việc giảng dạy lịch sử ở trường THPT nhiều năm trước cho thấy mục tiêu giáo dục đặt ra chỉ đạt ở mức rất khiêm tốn. Vậy làm thế nào để phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học lịch sử nói chung và ở bậc THPT nói riêng? Câu hỏi này được đặt ra và bước đầu tìm được lời giải đáp khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra chủ trương đổi mới phương pháp dạy học với tinh thần: "Phải đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các công nghệ tiên tiến và phương pháp hiện đại hoá vào quá trình dạy học’’. Ngày nay, khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Với xu thế phát triển của thời đại, ứng dụng CNTT (công nghệ thông tin) trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một yêu cầu cấp bách. Việc ứng dụng CNTT vào dạy học là việc làm phù hợp với mục tiêu, định hướng trong đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Đối với môn Lịch sử, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy cũng chính nhằm thực hiện tinh thần ấy. Công nghệ thông tin sẽ là một ưu thế và yếu tố trực quan đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu, hiểu và ghi nhớ các sự kiện lịch sử mà học sinh được học. Cùng với đầu tư trang thiết bị thì đổi mới phương pháp trong dạy học bằng việc ứng dụng CNTT dạy học là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa để nâng cao chất lượng dạy học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học, coi CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn. Đó chính là lý do khách quan khiến tôi chọn vấn đề này làm nội dung nghiên cứu trong sáng kiến kinh nghiệm của mình.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG” Người thực hiện: Lương Thị Hạnh Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn SKKN thuộc môn: Lịch sử THANH HÓA, NĂM 2019 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài............. Trang 1 1. 2. Mục đích nghiên cứu .... Trang 2 1. 3. Đối tượng nghiên cứu................................... Trang 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu................................ Trang 2 1. 5. Những điểm mới của SKKN...................... Trang 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận Trang 2 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN Trang 5 2. 3. Các giải pháp đã thực hiện để “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. Trang 6 2. 3.1. Ý nghĩa của việc ứng dụng CNTT trong dạy học LS Trang 6 2. 3. 2. Một số ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử.. Trang 10 - Sử dụng Internet trong dạy học lịch sử ở trường THPT Trang 10 - Sử dụng một số phần mềm và các loại CD Rom.. Trang 10 - Một số nguyên tắc khi ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử ở trường THPT Trang 11 2. 3. 3. Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường THPT qua thực tế giảng dạy Trang 12 2. 3. 4. Kiểm chứng hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử ở trường THPT qua thực tế giảng dạy........................... Trang 17 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường................................. Trang 18 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Trang 19 3.1. Kết luận Trang 19 3.1. Kiến nghị Trang 20 Tài liệu tham khảo 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông là một quá trình sư phạm đa dạng, phức tạp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Những hoạt động đó nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy lịch sử, qua đó giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách học sinh. Cũng như các môn học khác ở trường THPT (trung học phổ thông), môn Lịch sử có nhiệm vô quan trọng trong việc hướng tới đào tạo một thế hệ trẻ trở thành người làm chủ nước nhà, có trình độ, có văn hoá, đáp ứng những nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt. Song trên thực tế, việc giảng dạy lịch sử ở trường THPT nhiều năm trước cho thấy mục tiêu giáo dục đặt ra chỉ đạt ở mức rất khiêm tốn. Vậy làm thế nào để phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học lịch sử nói chung và ở bậc THPT nói riêng? Câu hỏi này được đặt ra và bước đầu tìm được lời giải đáp khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra chủ trương đổi mới phương pháp dạy học với tinh thần: "Phải đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các công nghệ tiên tiến và phương pháp hiện đại hoá vào quá trình dạy học’’. Ngày nay, khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Với xu thế phát triển của thời đại, ứng dụng CNTT (công nghệ thông tin) trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một yêu cầu cấp bách. Việc ứng dụng CNTT vào dạy học là việc làm phù hợp với mục tiêu, định hướng trong đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Đối với môn Lịch sử, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy cũng chính nhằm thực hiện tinh thần ấy. Công nghệ thông tin sẽ là một ưu thế và yếu tố trực quan đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu, hiểu và ghi nhớ các sự kiện lịch sử mà học sinh được học. Cùng với đầu tư trang thiết bị thì đổi mới phương pháp trong dạy học bằng việc ứng dụng CNTT dạy học là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa để nâng cao chất lượng dạy học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học, coi CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn. Đó chính là lý do khách quan khiến tôi chọn vấn đề này làm nội dung nghiên cứu trong sáng kiến kinh nghiệm của mình. Bên cạnh lý do trên, bản thân tôi nhận thấy: Việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và trong giảng dạy lịch sử nói riêng là hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất nhằm đạt đến mục tiêu giáo dục. Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải chủ động học hỏi, mạnh dạn tìm tòi và áp dụng những thành tựu CNTT vào công việc giảng dạy để bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng phần nào yêu cầu của công tác đổi mới giáo dục. Trong nhiều năm qua, Sở Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở tất cả các cấp học, các môn học trong đó có môn Lịch sử. Trong thực tế giảng dạy lịch sử ở trường THPT Hoằng Hóa 4, tôi thấy việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử ở trường THPT là vô cùng cần thiết. Vì vậy, tôi xin đưa ra một vài ý kiến đóng góp xung quanh vấn đề này trên cơ sở thực hiện một đề tài nhỏ với nhan đề: "Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông ". 2.2. Mục đích nghiên cứu Với nhan đề "Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông". Đề tài sẽ làm rõ ý nghĩa của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy - học lịch sử ở trường THPT. Từ thực trạng giảng dạy lịch sử hiện nay, đề tài cũng sẽ đưa ra một số ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử bậc THPT cùng những đề xuất để nhằm góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. 1. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công nghệ thông tin cùng những ứng dụng của nó nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh trong việc dạy và học môn lịch sử ở trường THPT. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này, tôi kết hợp nhiều phương pháp khác nhau: Phương pháp thu thập thông tin bằng cách tri giác trực tiếp, phương pháp điều tra, tổng hợp tài liệu, tổng kết kinh nghiệm. Trong chừng mực nhất định, tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành, thống kê, tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ các nội dung trình bày. Ngoài ra, tôi còn tiến hành phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thiết kế bài dạy, quan sát, dự giờ, khảo sát, thực nghiệm. 1. 5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Đề tài - Nội dung của SKKN được tôi phát triển, nâng cao trên cơ sở sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi đã làm ở nhiều năm trước. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận - Căn cứ vào mục tiêu giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước ta Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin, việc đào tạo ra những con người có năng lực, có trình độ nhận thức cao đang là mục tiêu hàng đầu của nhân loại trong thế kỉ XXI. Xu thế chung đã đưa giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu, thành lĩnh vực được nhiều quốc gia chú trọng đầu tư. Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đồng thời đã vạch ra phương hướng chung để đổi mới sự nghiệp giáo dục. Từ thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước thời kì đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ của giáo dục là nhằm “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng những con người mới năng động sáng tạo”, “Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có tri thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế nhiều thành phần”. (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII). Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học. Nghị quyết TW2, khoá VIII đã xác định mục tiêu của việc đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo là nhằm: “khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại học.” Với những chủ trương đó của Đảng và Nhà nước, CNTT đã mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự lực với máy tính, với Internet, dạy học theo hình thức lớp học phân tán qua mạng, dạy học qua cầu truyền hình. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận động thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn. Chính vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy là cần thiết. Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 07-10 - 2001 về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa đã chỉ ra trọng tâm của ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo. - Căn cứ vào đặc trưng môn lịch sử Lịch sử là quá trình phát triển không ngừng của xã hội loài người từ khi con người xuất hiện. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra một lần duy nhất gắn với một khoảng thời gian, không gian và nhân vật cụ thể. Trong học tập lịch sử, học sinh không thể “trực tiếp quan sát” được các sự kiện, hiện tượng, giáo viên cũng không thể tiến hành thí nghiệm lịch sử để dựng lại quá khứ đúng như nó từng tồn tại mà chỉ giúp học sinh hiểu nó thông qua các biểu tượng lịch sử được hình thành trên cơ sở các sự kiện lịch sử mà giáo viên cung cấp. Với một giờ văn, học sinh có thể được nghe cô giáo tả về vẻ đẹp của một hiện thực nào đó: một áng mây tím nhạt lúc hoàng hôn, một cánh đồng lúa xanh mát tươi tắn như cô gái tuổi dậy thì, một dòng sông quê hương với những điệu hò tha thiếtTất cả đều hiện ra trước mắt các em một cách dễ dàng, chân thực bởi đó là những hiện thực các em được nhìn, được cảm, được tiếp xúc hàng ngày. Thế nên, việc tái tạo hình ảnh của chúng đối với học sinh không gặp mấy khó khăn. Nhưng ở môn lịch sử thì lại khác, thông qua lời nói, thông qua những biện pháp sư phạm, giáo viên cung cấp cho các em những hiểu biết về quá khứ. Để quá khứ lịch sử trở nên sống động không khô khan, để những biểu tượng lịch sử được tái hiện chân thực, chính xác và để đi đến những khái niệm đúng, để rút ra quy luật, bài học lịch sử thì giáo viên phải kích thích được tư duy học sinh, phải giúp các em tích cực làm việc. Có như thế, học sinh mới không dừng lại ở mức biết lịch sử mà đạt đến hiểu lịch sử và vận động những hiểu biết ấy vào thực tiễn, để lịch sử thực sự "trở thành cô giáo của cuộc sống, là bó đuốc soi đường đi đến tương lai’’. Đó là nguyên tắc cơ bản của hoạt động dạy nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Trong học tập lịch sử cũng như trong mọi môn học khác phải đồng thời tiến hành ba nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển kỹ năng. Thực hiện một cách nhuần nhuyễn ba nhiệm vụ có liên quan đến nhau đòi hỏi chúng ta phải phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập. Tuy nhiên, việc phát huy tính tích cực trong học tập lịch sử không phải là bỏ công sức để lượm lặt sự kiện quá khứ mà phải hiểu quá khứ để "bắt quá khứ trả lời hiện tại và dự đoán tương lai". Trên thực tế, quá trình nhận thức của học sinh phải trải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn khác nhau, như Lênin đã khẳng định: tức là bắt đầu từ "trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng", rồi từ "tư duy trừu tượng đến thực tiễn". Để mỗi khâu của quá trình nhận thức đạt hiệu quả thì giáo viên nói chung và giáo viên lịch sử nói riêng phải phát huy được tính tích cực của học sinh trong học tập, hay nói cách khác, phải đổi mới phương pháp dạy học. Đó chính là con đường để dẫn đến chân lý khoa học. Tuy nhiên, để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử, giáo viên phải làm cho học sinh thấy có hứng thú với môn sử, thích học sử. CNTT sẽ giúp giáo viên thực hiện điều đó. CNTT nói riêng và khoa học công nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục đáp ứng được hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại, phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực thành của học sinh. Với thông tin được số hoá và nối mạng, con người có thể tích hợp thông tin trong những “kho tin” khổng lồ được liên kết tích hợp với nhau, biến chúng thành nguồn tài nguyên quý giá, có thể chia sẻ, trao đổi thông tin trên phạm vi toàn cầu một cách dễ dàng thông qua Internet. Như vậy, với tác động của CNTT và truyền thông, môi trường dạy học cũng thay đổi, nó tác động mạnh mẽ tới mọi thành tố của quá trình quản lý, giảng dạy, đào tạo và học tập dựa trên sự hỗ trợ của CNTT. Môn Lịch sử cũng không nằm ngoài ảnh hưởng đó. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm - Thực trạng giảng dạy lịch sử ở trường THPT Tồn tại ở trường phổ thông với tính cách là một môn khoa học, bộ môn lịch sử có tác động nhất định đến việc hình thành thế giới quan, tình cảm đạo đức, phát triển năng lực nhận thức và hành động cho học sinh. Như chúng ta đã nói, lịch sử là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Có những sự kiện đó diễn ra cách ngày nay hàng trăm, hàng ngàn năm thậm chí lâu hơn nữa. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi giáo viên phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra trước mắt mình. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh phổ thông cũng hạn chế nên việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện là một nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Trong lúc đó, các phương tiện trực quan phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn thiếu thậm chí không phù hợp. Thử lấy ví dụ về hệ thống bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều hệ thống bản đồ, tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ Giáo dục phát hành là không đủ cho các bài dạy. Bên cạnh đó kênh chữ và các kí hiệu quá nhỏ không thể sử dụng được. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc đơn điệu và thiếu đồng bộ, chưa kể đến phim tài liệu thì hầu như không có. So với yêu cầu đặt ra của bộ môn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói những phương tiện dạy học đó không đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo nên hứng thú học tập cho học sinh. Về phía học sinh, đa số các em coi bộ môn lịch sử là “môn phụ”. Vì vậy, các em ít chú ý nghe giảng (và giáo viên cũng chỉ nói những nội dung trong sách giáo khoa). Các em ghi chép một cách máy móc những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc lòng những gì được ghi trong vở - không biết kết hợp với sách giáo khoa, lại càng không biết làm nảy sinh những vấn đề lịch sử cần được giải quyết. Các em lười suy nghĩ, không biết phân tích vấn đề, hay nhớ nhầm lẫn giữa nội dung này với nội dung khác, càng không biết nêu vấn đề để bàn bạc - thảo luận và tìm hiểu. Trong dạy học lịch sử, để khôi phục tái hiện lại bức tranh quá khứ một cách sinh động thì phương tiện trực quan là yếu tố cần thiết. Với sự bùng nổ của CNTT, các em có thể tìm thấy rất nhiều tư liệu, hình ảnh sống động về lịch sử khiến các em hứng thú. Vì vậy, các em càng dễ tỏ ra thờ ơ với bài dạy lịch sử của giáo viên. Thực trạng đó diễn ra ở hầu hết các trường phổ thông . Số lượng học sinh tha thiết với khối có môn thi lịch sử và điểm số của các kỳ thi đại học môn sử đã phần nào phản ánh đúng thực trạng đó. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của CNTT như hiện nay thì một trong những cách để góp phần đổi mới phương pháp dạy học chính là ứng dụng CNTT nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành tựu CNTT đã đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học, cấp học. CNTT với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung và đối với bộ môn lịch sử nói riêng. Những ứng dụng được lựa chọn phù hợp sẽ mang lại sự hứng thú, tái hiện lại phần nào các sự kiện đã lui vào quá khứ thông qua khai thác các trang tư liệu của Việt Nam và thế giới, thay vì tình trạng “dạy chay” đang khá phổ biến hiện nay ở các trường học. - Thực trạng và khả năng đáp ứng những yêu cầu về cơ sở vật chất ở các trường THPH. Cùng với sự phát triển kinh tế, trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, các trường THPT theo hướng dẫn của Sở Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Máy móc, trang thiết bị hiện đại đã được đầu tư và bước đầu khai thác phục vụ cho giảng dạy. Thực tế cho thấy việc làm này đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc kích thích sự hứng thú học tập của học sinh. Trường THPT Hoằng Hóa 4 đóng ở khu vực Đông Nam huyện Hoằng Hóa, đây một vùng đất nghèo, hiếu học. Phần đông học sinh xuất thân trong những gia đình nông dân nghèo, không có điều kiện tiếp xúc với máy tính, mạng Internet nên rất hứng thú với việc tiếp thu các mới, sáng tạo, máy tính... Trong những năm gần đây nhà trường được sự quan tâm của Sở Giáo dục đã đầu tư nhiều trang thiết bị dạy học trong đó có phòng máy tính, máy chiếu, phòng học đa năng. Tất cả đã tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy hàng ngày. Qua thực tế giảng dạy lịch sử ở trường THPT Hoằng Hóa 4, tôi nhận thấy vai trò to lớn của CNTT trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Vì vậy, tôi cũng muốn chia sẻ những hiểu biết nhất định của mình về vấn đề này với các đồng nghiệp thông qua đề tài "Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông”. 2. 3. Các giải pháp đã thực hiện để “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông”. 2. 3.1. Ý nghĩa của việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật máy tính của Mỹ vào năm 1993 (tạm dịch): “Con người lưu lại trong bộ nhớ được 20% những gì họ thấy và 30% những gì họ nghe. Nhưng họ nhớ 50% những gì họ thấy và nghe; và con số này lên đến 80% nếu họ thấy và nghe sự vật, hiện tượng một cách đồng thời”. Trên cơ sở của những số liệu này và quá trình giảng dạy thực tế ở trường phổ thông ta có thể thấy: Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, do đặc trưng của bộ môn và “tính đặc thù” trong con đường nhận thức lịch sử của học sinh, nên việc sử dụng đồ dùng trực quan được coi là “nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học”. Không phải ngẫu nhiên mà trong nhiều công trình nghiên cứu và bài viết của các nhà giáo dục lịch sử, người ta đã trích dẫn quan điểm của J.A. Cômenxki về sự cần thiết phải sử dụng tính hình ảnh, trực quan trong dạy học: “Lời nói là cái vỏ ngoài, sự thật là cái thật ở trong. Lời nói là cái áo khoác ngoài, sự thật là thân thể. Nghiên cứu sự thật không thể chỉ dựa vào những cái mà người khác quan sát và chứng minh, mà phải dựa vào những cái mà chính mắt mình nhìn thấy, tai mình nghe được,”. Ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT cũng không nằm ngoài nguyên tắc dạy học ấy. - Đối với giáo viên Sử dụng CNTT trong dạy học lịch sử sẽ giúp giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, sử dụng công nghệ và phương tiện kĩ thuật hiện đại trong dạy học. Nếu việc soạn giáo án trên văn bản (Word), hoặc thiết kế giáo án điện tử trên phần mềm PowerPoint thường xuyên sẽ giúp giáo viên nhanh chóng hình thành kĩ năng, kĩ xảo sử dụng công nghệ, nhất là với những thao tác cơ bản trong phương pháp soạn bài giảng như xây dựng bản đồ giáo khoa điện tử, chèn kênh hình, tạo hiệu ứng chuyển động, âm thanh, tạo đường liên kết giữa các Slide bài giảng (Hiperlink). Mặt khác, nhờ có tín
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_day_hoc_lich_su_o_tr.doc