SKKN Tích hợp tri thức Toán học với Vật lí trong dạy học môn Vật lí 10 ở Trung tâm GDNN - GDTX

SKKN Tích hợp tri thức Toán học với Vật lí trong dạy học môn Vật lí 10 ở Trung tâm GDNN - GDTX

Từ nhu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, định hướng đổi mới phương pháp dạy học (DH) trong giai đoạn hiện nay là: DH cần hướng vào việc tổ chức cho học sinh (HS) học tập trong hoạt động và bằng hoạt động. Học thông qua hoạt động là cách tốt nhất vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề liên quan, qua đó HS thấy được việc học có ý nghĩa, tạo động lực để các em khám phá, từ đó phát triển năng lực của HS.

Dạy học tích hợp đang là hướng đi mới mà Bộ Giáo dục và đào tạo khá kì vọng để thiết kế nội dung giáo dục phổ thông nhằm giảm số môn học bắt buộc, tăng số môn học tự chọn và rèn luyện kĩ năng cho HS. Vì các chủ đề tích hợp liên môn có tính thực tiễn nên sinh động hấp dẫn đối với HS, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ hứng thú học tập cho HS. Học các chủ đề tích hợp, liên môn HS được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc, nhờ đó năng lực và phẩm chất của HS được hình thành và phát triển.

Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, đây là một môn học không dễ với học sinh THPT. Vấn đề khó ở đây không chỉ về mặt kiến thức Vật lí bao quát, trừu tượng, chi phối nhiều hiện tượng liên quan đến đời sống hằng ngày mà còn khó ở chỗ nó liên quan đến những kiến thức toán học phức tạp được xem là công cụ không thể thiếu. Thực tế cho thấy HS không học tốt một Vật lí là do bị hỏng những kiến thức về Toán học, do vậy đứng trước một bài toán vật lí, các em không biết phải giải quyết như thế nào. Vậy phải làm gì để giúp các em có thể học tốt hơn về môn Vật lí? Để giải quyết những vướng mắc nêu trên, việc bổ túc cho học sinh những kiến thức cơ bản về Toán học là việc làm thực sự cần thiết.Với những lí do trên, từ thực tế giảng dạy môn Vật lí ở Trung tâm GDNN - GDTX Hà Trung, tôi đã đúc rút được kinh nghiệm và mạnh dạn thử nghiệm đề tài: “Tích hợp tri thức Toán học với Vật lí trong dạy học môn Vật lí 10 ở Trung tâm GDNN - GDTX”

 

docx 19 trang thuychi01 13182
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tích hợp tri thức Toán học với Vật lí trong dạy học môn Vật lí 10 ở Trung tâm GDNN - GDTX", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Từ nhu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, định hướng đổi mới phương pháp dạy học (DH) trong giai đoạn hiện nay là: DH cần hướng vào việc tổ chức cho học sinh (HS) học tập trong hoạt động và bằng hoạt động. Học thông qua hoạt động là cách tốt nhất vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề liên quan, qua đó HS thấy được việc học có ý nghĩa, tạo động lực để các em khám phá, từ đó phát triển năng lực của HS.
Dạy học tích hợp đang là hướng đi mới mà Bộ Giáo dục và đào tạo khá kì vọng để thiết kế nội dung giáo dục phổ thông nhằm giảm số môn học bắt buộc, tăng số môn học tự chọn và rèn luyện kĩ năng cho HS. Vì các chủ đề tích hợp liên môn có tính thực tiễn nên sinh động hấp dẫn đối với HS, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ hứng thú học tập cho HS. Học các chủ đề tích hợp, liên môn HS được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc, nhờ đó năng lực và phẩm chất của HS được hình thành và phát triển.
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, đây là một môn học không dễ với học sinh THPT. Vấn đề khó ở đây không chỉ về mặt kiến thức Vật lí bao quát, trừu tượng, chi phối nhiều hiện tượng liên quan đến đời sống hằng ngày mà còn khó ở chỗ nó liên quan đến những kiến thức toán học phức tạp được xem là công cụ không thể thiếu. Thực tế cho thấy HS không học tốt một Vật lí là do bị hỏng những kiến thức về Toán học, do vậy đứng trước một bài toán vật lí, các em không biết phải giải quyết như thế nào. Vậy phải làm gì để giúp các em có thể học tốt hơn về môn Vật lí? Để giải quyết những vướng mắc nêu trên, việc bổ túc cho học sinh những kiến thức cơ bản về Toán học là việc làm thực sự cần thiết.Với những lí do trên, từ thực tế giảng dạy môn Vật lí ở Trung tâm GDNN - GDTX Hà Trung, tôi đã đúc rút được kinh nghiệm và mạnh dạn thử nghiệm đề tài: “Tích hợp tri thức Toán học với Vật lí trong dạy học môn Vật lí 10 ở Trung tâm GDNN - GDTX”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Việc vận dụng kiến thức Toán học trong dạy học chương trình Vật lí lớp 10 nhằm đạt được những mục đích sau:
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy và rèn luyện, bổ sung thêm kiến thức, kĩ năng cho giáo viên.
- Làm đa dạng, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh chủ động học tập, khai thác kiến thức.
- Góp phần tạo hứng thú môn học cho học sinh, đồng thời khắc sâu thêm kiến thức, phát huy tính tự giác, độc lập và sáng tạo của học sinh.
- Trang bị cho học viên những kiến thức, giá trị, thái độ, hành vi và những thói quen lành mạnh, loại bỏ những thói quen tiêu cực, nhằm giải quyết những vấn đề mà xã hội đang quan tâm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài trên, tôi chọn 3 lớp khối 10 Trung tâm GDNN – GDTX Hà Trung làm thí điểm.
- Số lượng học sinh: 111
- Đặc điểm của học sinh: Các em học sinh đa phần là học sinh tiếp thu kiến thức còn chậm, rụt rè, ngại phát biểu. Vì vậy, khi chọn những đối tượng học sinh trên, tôi mong muốn với những đổi mới của mình về phương pháp sử dụng kiến thức tích hợp sẽ làm tăng hứng thú của các em trong việc học tập Vật lí, giúp các em chủ động tìm tòi, khám phá, không còn e ngại đối với các môn khoa học tự nhiên như môn Vật lí.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu nội dung này, tôi sử dụng một số phương pháp sau đây:
- Phương pháp tham khảo tài liệu: Tìm hiểu lí luận của các nhà giáo dục về việc sử dụng kiến thức toán học vào vật lí để tạo hứng thú học tập cho HS trong các tài liệu giáo dục và tài liệu Vật lí có liên quan đến đề tài. Sưu tầm, tập hợp các tài liệu, kiến thức về các môn học có liên quan đến chương trình Vật lí lớp 10. Qua đó, chọn lọc những nội dung kiến thức có giá trị thiết thực, có thể vận dụng vào để minh họa, bổ sung, diễn giải, khắc sâu thêm những kiến thức Vật lí.
- Phương pháp quan sát: Thường xuyên dự giờ của các đồng nghiệp nhằm quan sát và học hỏi thêm những kiến thức của các môn học khác cũng như cách vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy.
- Phương pháp thực nghiệm: Đánh giá những kĩ năng của học sinh cũng như hiệu quả của phương pháp dạy học thông qua các bài tập, bài kiểm tra.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Dạy học tích hợp tạo ra các tình huống liên kết tri thức các môn học, đó là cơ hội phát triển các năng lực của HS. Khi xây dựng các tình huống vận dụng kiến thức HS sẽ phát huy được năng lực tự lực, phát triển tư duy sáng tạo.
Dạy học tích hợp các khoa học sẽ làm giảm trùng lặp nội dung dạy học các môn học, việc xây dựng chương trình các môn học theo hướng này có ý nghĩa quan trọng làm giảm tình trạng quá tải của nội dung học tập, đồng thời hiệu quả dạy học được nâng lên. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, do đòi hỏi của xã hội, nhiều tri thức cần thiết mới đều muốn được đưa vào nhà trường.
Dạy học tích hợp nhấn mạnh được các mục tiêu cơ bản sau:
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa bằng cách gắn học tập với cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với các tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này, hòa nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn. Cái cốt yếu là những năng lực cơ bản cần cho HS vận dụng vào xử lí những tình huống có ý nghĩa trong cuộc sống, hoặc đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học tập tiếp theo.
- Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống thực tế, cụ thể, có ích cho cuộc sống sau này.
- Xác lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học, thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy HS mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi gặp một tình huống bất ngờ, chưa từng gặp.
Sử dụng kiến thức toán học vào trong vật lí được coi là nguồn tri thức quan trọng không thể thiếu trong dạy học Vật lí và được coi như tài liệu tham khảo. Mặt khác, sử dụng tốt kiến thức liên môn và gây hứng thú học tập cho học sinh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Vật lí nói riêng. Sử dụng kiến thức liên môn đảm bảo được tính toàn vẹn của kiến thức trên cơ sở sử dụng kiến thức của những môn học khác và ngược lại. Kiến thức liên môn còn giúp cho học sinh tránh được những lỗ hổng kiến thức khi tách rời các môn học khác. Nhờ đó, các em hiểu sâu sắc được kiến thức Vật lí và gây được hứng thú trong học tập cho học sinh, thúc đẩy quá trình nhận thức của học sinh đạt kết quả cao. Nếu hiểu được kiến thức thì các em sẽ hình thành được những kĩ năng như: phân tích, so sánh, nhận định, đánh giá và biết liên hệ kiến thức đã học vào cuộc sống. 
Qua thực tế, tôi nhận thấy trong chương trình Vật lí ở các khối 10, 11, 12 đều có thể vận dụng kiến thức của nhiều bộ môn khác nhau vào việc giảng dạy.Trong đó, chương trình Vật lí lớp 10 là một nội dung khó, liên quan đến kiến thức toán học nhiều,nội dung kiến thức khô khan, khó mường tượng. Vậy nên, việc dạy học chương trình Vật lí 10 theo hướng tích hợp liên môn sẽ giúp học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức, gắn kiến thức các môn học có liên quan với môn Vật lí để hiểu sâu sắc hơn các vấn đề thực tiễn.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
Hiện nay, phần lớn giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng quan điểm dạy học tích hợp vào giảng dạy các môn học nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục. Qua các năm đổi mới phương pháp dạy học Vật lí, chất lượng dạy và học môn Vật lí đã không ngừng được nâng cao. Số lượng giáo viên giỏi, học sinh giỏi các cấp ngày càng nhiều. Nhiều học sinh đã yêu thích môn Vật lí. Các giờ học Vật lí đã diễn ra sôi nổi, sinh động.Tuy vậy, việc dạy học Vật lí vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chất lượng dạy và học vẫn chưa thật sự bền vững. Nhiều giờ học vẫn còn tẻ nhạt, học sinh vẫn chưa thật sự say mê, hứng thú. Thực trạng này theo tôi bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. 
Thứ nhất, về phía giáo viên: Nhiều giáo viên vẫn coi nặng việc truyền thụ kiến thức, ít vận dụng kiến thức liên môn, chủ đề tích hợp giáo dục; xem nhẹ việc giúp học sinh phát triển những năng lực cần thiết nhằm giải quyết những vấn đề trong thực tiễn, dẫn đến lối dạy học đọc chép, tiết dạy khô khan, không sinh động. 
Thứ hai, về phía học sinh: Các em chịu áp lực nặng về việc ghi nhớ kiến thức, học không gắn với thực tiễn, với kiến thức của các môn học khác trong cùng cấp học. Thêm vào đó, đa số HV Trung tâm GDNN – GDTX đầu vào chất lượng học thấp và yếu về các môn khoa học tự nhiên dẫn đến lối học thụ động, ghi nhớ máy móc, nhàm chán, không yêu thích bộ môn.
Để tìm hiểu thực trạng của vấn đề đang nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đối với học sinh các lớp 10A, 10B, 10C của Trung tâm GDNN – GDTX Hà Trung đầu năm học 2018 - 2019, trước khi tiến hành vận dụng tích hợp tri thức toán học vào trong dạy học Vật lí. Kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10A
40
1
2,5
7
17,5
22
55,0
10
25,0
0
0
10B
35
1
2,8
6
17,1
20
57,2
8
22,9
0
0
10C
36
1
2,8
6
16,7
21
58,3
8
22,2
0
0
	Những số liệu trên cho thấy chất lượng môn học chưa thật sự đáp ứng được mục tiêu giáo dục đề ra. Do vậy, bản thân tôi nhận thấy, việc đổi mới các phương pháp dạy học trên lớp phải gắn liền với việc tăng cường niềm say mê, hứng thú học tập của học sinh, giúp các em cố gắng đạt kết quả cao trong học tập. Trong đó, vận dụng kiến thức của các môn học khác nhau trong dạy học Vật lí là phương pháp dạy học đem lại nhiều hiệu quả. Vì vậy, với đề tài này, không có tham vọng gì nhiều, tôi chỉ muốn đưa ra một số giải pháp cơ bản trong việc vận dụng kiến thức toán học vào trong dạy học cụ thể để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy học Vật lí.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Khai thác khả năng gợi động cơ từ các tình huống trong thực tiễn có tri thức toán học vào vật lí để gây hứng thú cho HS.
Trong quá trình học tập của HS, hứng thú học tập là một vấn đề quan trọng. Nó là cơ sở của tính tự giác, tích cực và chủ động trong quá trình học tập và làm việc. Không có hứng thú khi học tập, HS sẽ cảm thấy bị gò bó, bị ép buộc, dễ chán nản, mệt mỏi. Ngược lại, nếu có sự hứng thú thì sẽ tạo nên một tâm thế chủ động, tích cực trong quá trình học tập và làm việc. Người có hứng thú luôn tìm thấy niềm vui trong công việc, do đó họ sẽ nỗ lực, kiên trì để tìm tòi, khám phá, tìm cách giải quyết các vấn đề đặt ra. Nói cách khác, sự hứng thú là điều kiện cần thiết để HS đạt hiệu quả cao trong học tập. Chính vì vậy, việc gây hứng thú cho HS trong quá trình DH là một việc làm hết sức quan trọng. Vật lí có nguồn gốc từ thực tiễn nên việc khai thác khả năng gợi động cơ từ các tình huống trong thực tiễn có tri thức toán để gây hứng thú, gợi động cơ có thể giúp HS thấy được ý nghĩa, sự cần thiết phải học khái niệm, định lí, quy tắc, phương pháp, bài tập đó. 
Để khai thác khả năng gợi động cơ từ các tình huống trong thực tiễn có tri thức toán học vào vật lí để gây hứng thú cho HV cần thực hiện các biện pháp sau:
+ Bước 1: Tìm hiểu kĩ nội dung toán học và những tình huống trong thực tiễn có tri thức vật lí liên quan. 
+ Bước 2: Tìm tòi một số tình huống trong thực tiễn có tri thức vật lí liên quan. 
+ Bước 3: Nghiên cứu và lựa chọn tình huống. 
+ Bước 4: Đưa ra tình huống gợi động cơ (gợi động cơ mở đầu, gợi động cơ trung gian, gợi động cơ kết thúc tùy vào từng nội dung dạy học).
Ví dụ 3.1. Khi DH về tổng hợp và phân tích lực.
+ Bước 1: Tìm hiểu khái niệm tổng của hai vectơ trong toán học, trong vật lí vectơ biểu diễn cho lực tác dụng, tổng của hai lực tác dụng lên một vật.
+ Bước 2: Tìm tòi một số tình huống trong thực tiễn có tri thức vật lí liên quan.
Chẳng hạn:
Tình huống 1: Hai tàu nhỏ kéo một tàu lớn hơn.
Tình huống 2: Kiến tha mồi.
Tình huống 3: Bác Hồ tát nước chống hạn năm 1958.
+ Bước 3: Nghiên cứu trong những tình huống trên thì các tình huống đều phù hợp.
+ Bước 4: Đưa ra tình huống gợi động cơ mở đầu.
Các tình huống trên cho ta ví dụ về một vật chịu tác dụng của nhiều lực. Ta xét hiệu quả tác dụng đồng thời của hai hay nhiều lực lên một vật. Nếu phải tổng hợp nhiều lực đồng quy thì vận dụng quy tắc như thế nào ? GV hướng dẫn HV hình thành tổng hợp lực từ khái niệm tổng hai véc tơ và quy tắc hình bình hành. Chính vì vậy, GV cần xác định rõ những vấn đề nào có thể gợi động cơ từ các tình huống vật lí và những vấn đề nào sẽ gợi động cơ từ các tình huống trong nội bộ toán học.
2.3.2.Tăng cường hoạt động củng cố theo hướng khai thác các ứng dụng của môn Toán vào bộ môn Vật lí.
Hoạt động củng cố trong DH Vật lí là hoạt động hết sức cần thiết, nó giúp cho HS nắm vững kiến thức, biết vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống cụ thể. Toán học là môn học cung cấp công cụ cho bộ môn Vật lí rất nhiều.Vì vậy, GV có thể khai thác các ứng dụng của môn Toán vào bộ môn Vật lí trong hoạt động củng cố kiến thức cho HS. Hoạt động này vừa giúp cho HS nắm vững kiến thức không chỉ của môn Vật lí mà các em còn được củng cố thêm kiến thức của môn Toán. HS thấy được ý nghĩa của Toán học đối với môn Vật lí, thấy được việc học toán là thực sự cần thiết, từ đó giúp cho HS có thêm động lực để học tập môn Lí - Toán và tạo hứng thú học tập cho HS được tốt hơn. Để tăng cường hoạt động củng cố theo hướng khai thác các ứng dụng của Toán vào Vật lí cần thực hiện biện pháp sau:
+ Bước 1: Tìm hiểu kĩ nội dung lí thuyết Vật lí sẽ hình thành cho HS và những ứng dụng của kiến thức Toán học vào bộ môn Vật lí. 
+ Bước 2: Tìm tòi một số ứng dụng của kiến thức đó vào bộ môn Vật lí. 
+ Bước 3: Nghiên cứu và lựa chọn ứng dụng. 
+ Bước 4: Đưa ra hoạt động củng cố theo hướng khai thác các ứng dụng của môn Toán vào bộ môn Vật lí. 
Ví dụ 3.2: Củng cố bài toán về chuyển động ném ngang.
+ Bước 1: GV cần tìm hiểu kĩ nội dung bài học hình thành cho học sinh: Thay thế chuyển động cong, phẳng của vật bằng hai chuyển động thẳng của hai hình chiếu của vật trên hai trục tọa độ Đề-các, tức là phân tích chuyển động. Xác định tính chất của mỗi chuyển động thành phần và viết các công thức của chuyển động.Từ đó xác định chuyển động của vật từ các chuyển động thành phần.
Những ứng dụng kiến thức khái niệm hàm số bậc hai và đồ thị của hàm số bậc hai vào bài toán chuyển động ném ngang.
+ Bước 2: Tìm tòi một số ứng dụng của hàm số bậc hai và đồ thị của hàm số bậc hai vào bài toán chuyển động ném ngang. 
Ứng dụng 1: Khi biết phương trình quỹ đạo chuyển động của vật là một hàm số bậc hai ta có thể vẽ được quỹ đạo chuyển động của vật. 
Ứng dụng 2: Khi biết phương trình quỹ đạo chuyển động của vật là một hàm số bậc hai ta có thể tìm được vị trí của vật khi ở điểm cao nhất trong quỹ đạo hoặc ở điểm thấp nhất trong quỹ đạo.
+ Bước 3: Nghiên cứu những ứng dụng trên ta có thể lựa chọn ứng dụng 2 để củng cố kiến thức. 
+ Bước 4: Đưa ra hoạt động củng cố theo hướng khai thác các ứng dụng 2.
	Như vậy, nếu trong quá trình giảng dạy GV giúp HS khám phá được phương trình quỹ đạo của vật ném ngang : y = (là một hàm số bậc hai), quỹ đạo của vật là một parabol, làm rõ mô hình toán học trong vật lí, giúp HS biết chuyển đổi ngôn ngữ giữa toán học và vật lí một cách linh hoạt thì HS không phải nhớ công thức vật lí một cách máy móc và có thể sử dụng tính chất, ứng dụng của toán học để khai thác nhiều tính chất trong vật lí. Trong trường hợp này ta còn có thể thấy ngay hoành độ giao điểm khác 0 của parabol với trục hoành chính là tầm bay xa của vật.
2.3.3. Dạy học các chủ đề tích hợp theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Trong các chủ đề tích hợp cần chứa đựng các tình huống gắn với thực tiễn cuộc sống, gần gũi và hấp dẫn người học, kích thích động cơ học tập của HS. Khi DH các chủ đề tích hợp đòi hỏi HS phải lập luận, giải thích, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, hoặc phải trải nghiệm,GV dạy chủ đề tích hợp cần sử dụng các phương pháp DH tích cực để lôi cuốn tất cả các HS của lớp đều tích cực tham gia. Từ đó, tạo điều kiện để HS phát triển năng lực tự học, năng lực tính toán, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực ngôn ngữ và hợp tác,Trong DH các chủ đề tích hợp khi đánh giá HS không chỉ đánh giá kiến thức đã lĩnh hội được mà cái chính là phải đánh giá xem HS có năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống có vấn đề, các tình huống trong thực tiễn, các tình huống tích hợp liên môn.
2.3.4. Thiết kế một số chủ đề dạy học tích hợp
Chủ đề 1: Vận dụng hàm số và đồ thị vào chương động học chất điểm.
+ Bước 1: Lựa chọn chủ đề
Tên chủ đề: Vận dụng hàm số và đồ thị vào chương động học chất điểm.
Chủ đề này đề cập đến các kiến thức về hàm số y = ax + b, hàm số bậc hai và đồthị là các khái niệm cơ bản trong toán học, nhưng đồng thời cũng có mối liên hệ mật thiết với các kiến thức vật lí. Cụ thể là các kiến thức về hàm số y = ax + b, hàm số bậc hai và đồ thị của chúng được vận dụng vào động học chất điểm trong môn Vật lí và các tình huống trong thực tiễn.
Chủ đề này đề cập đến các kiến thức trong các bài:
Các bài trong SGK môn Đại số 10
Các bài trong SGK môn Vật lí 10
+ Hàm số y = ax + b.
+ Hàm số bậc hai y = ax2 + bx + c.
(a≠0)
+ Chuyển động thẳng đều.
+ Chuyển động thẳng biến đổi đều.
+ Sự rơi tự do.
+ Bài toán về chuyển động ném ngang.
+ Bước 2: Xác định mục tiêu DH của chủ đề
- Hiểu và ghi nhớ các tính chất của các hàm số y = ax + b và y = ax2 + bx + c
Khi cho một số yếu tố, hoặc cho đồ thị của hàm số biết cách tìm hàm số bậc nhất và hàm số bậc hai. Biết cách giải một số bài toán đơn giản về đường thẳng và parabol.
- Hiểu được công thức tính quãng đường đi được, phương trình chuyển động và đồ thị tọa độ - thời gian trong chuyển động thẳng đều, biết vận dụng giải một số bài tập.
- Hiểu được công thức vận tốc, công thức tính quãng đường đi được, phương trình chuyển động, đồ thị vận tốc - thời gian và đồ thị tọa độ - thời gian trong chuyển động thẳng biến đổi đều, vật rơi tự do, vật bị ném, biết vận dụng giải một số bài tập.
- Vận dụng được các kiến thức toán học về hàm số và đồ thị để giải quyết các bài toán vật lí.
- Phát triển một số năng lực như năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp, năng lực tự học, năng lực tự quản lí, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn, năng lực tính toán, năng lực sử dụng ngôn ngữ toán học và ngôn ngữ vật lí.
+ Bước 3: Xác định nội dung chính của chủ đề
Các tri thức môn Toán
Các tri thức môn Vật lí
Hàm số bậc nhất y = ax + b
+ a > 0: Hàm số đồng biến
+ a < 0: Hàm số nghịch biến
+ Đồ thị của hàm số là một đường thẳng không song song và không trùng với các trục toạ độ. Đường thẳng này luôn song song với đường thẳng y = ax ( b≠0)
+ Quãng đường đi được trong chuyển
động thẳng đều là: s = vt 
+ Phương trình chuyển động thẳng đều:
Chọn gốc thời gian là lúc chất điểm bắt đầu chuyển động thì phương trình chuyển động thẳng đều của chất điểm là: x = x0 + s = x0 + vt
+ Vận tốc của chuyển động thẳng biến đổi đều: v = v0 + at
+ Vận tốc của vật rơi tự do: v = gt
Hàm số y = ax2 + bx + c (a ≠0)
+ Nếu a > 0 thì hàm số nghịch biến trên
khoảng (-∞;-b2a); đồng biến trên
khoảng (-b2a; +∞).
+ Nếu a > 0 thì hàm số đồng biến trên
khoảng (-∞;-b2a); nghịch biến trên
khoảng (-b2a; +∞).
+ Đồ thị là đường parabol khi a > 0 bề lõm quay lên trên, a < 0 bề lõm quay xuống
dưới.
+ Quãng đường đi được của chuyển động thẳng biến đổi đều là: 
s = v0t + 12at2
+ Phương trình chuyển động của chuyển động thẳng biến đổi đều là:
Chọn gốc thời gian là lúc chất điểm bắt đầu chuyển động thì phương trình chuyển động thẳng biến đổi đều của chất điểm là: x=x0+v0t+12at2
+ Quãng đường đi được của vật rơi tự do là: s=12gt2
+ Phương trình quỹ đạo của vật ném ngang là: y=g2v02x2
Bước 4: Xây dựng kế hoạch dạy học
Tiết
Hoạt động dạy học
Phương pháp và sản phẩm
i)Hoạt động 1: Ôn tập kiến thức phần hàm số và đồ thị của hàm số bậc nhất, bậc hai để vận dụng vào chương động học chất điểm.
ii)Hoạt động 2: Chia nhóm, phân công nhiệm vụ để thực hiện ứng dụng của hàm số và đồ thị trong vật lí và thực tiễn.
+ GV chia lớp HS thành 4 nhóm và giao nhiệm vụ, nội dung cho từng nhóm. Nhóm 1 thực hiện bài tập thực hành số 1, số 3; Nhóm 2 thực hiện bài tập thực hành số 2, số 4; Nhóm 3 thực hiện bài tập thực hành số 1, số 4; Nhóm 4: thực 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_tich_hop_tri_thuc_toan_hoc_voi_vat_li_trong_day_hoc_mon.docx