SKKN Tích hợp kiến thức liên môn trong việc giảng dạy Chuyên đề: “Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất” môn GDCD phần triết học lớp 10

SKKN Tích hợp kiến thức liên môn trong việc giảng dạy Chuyên đề: “Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất” môn GDCD phần triết học lớp 10

Môn GDCD là một bộ môn thuộc khoa học xã hội. Nó phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các tri thức khoa học trong môn GDCD là tri trức về triết học, CNXH khoa học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Đạo đức học, Pháp luật học, đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Các kiến thức đó được sắp xếp, bố trí hợp lí, cấu kết chặt chẽ, lô gíc phù hợp với học sinh THPT. Môn GDCD vừa có vị trí thông thường của một môn học vừa có vị trí đặc biệt của nó. Nó có nhiệm vụ như những môn học khác: trang bị tri thức, giáo dục tư tưởng tình cảm, rèn luyện kỹ năng , kỹ xảo, phát triển trí tuệ học sinh.

Trong chương trình GDCD ở lớp 10 có 2 phần( Kiến thức triết học và đạo đức). Đây là những nội dung rất quan trọng nhằm trang bị cho học sinh những thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, giáo dục đạo đức cho học sinh. Đặc biệt là đầu chương trình lớp 10 học sinh đã phải làm quen với những kiến thức triết học mới mẻ và khá trừu tượng. Đây là những nội dung rất quan trọng có tính định hướng cho các em trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Xuyên suốt nội dung triết học ở lớp 10 là vấn đề về sự vận động và phát triển của thế giới vật chất (sự vận động, nguyên nhân vận động, cách thức vận động, khuynh hướng vận động). Để học sinh nắm vững kiến thức ở phần này là tương đối khó khăn. Lâu nay một bộ phận giáo viên thường ngại tìm tòi đổi mới phương pháp, ngại nghiên cứu các kiến thức liên môn để vận dụng vào bài dạy do đó làm ảnh hưởng ít nhiều đến hiệu quả giảng dạy cũng như ảnh hưởng đến niềm đam mê của học sinh đối với bộ môn.

 Qua kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã tìm tòi và tìm cho mình một hướng đi thích hợp để nội dung triết học không còn là sự xa lạ và khô khan đối với các em. Một trong những điều tôi thấy mỗi giáo viên cần phải làm là nên biết tích hợp kiến thức liên môn khi giảng dạy về sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Việc tích hợp đó thực sự có hiệu quả rất nhiều. Chính vì lý do đó tôi mạnh dạn lựa chọn nội dung đề tài :Tích hợp kiến thức liên môn trong việc giảng dạy chuyên đề “ Sự vận động và phát triển của thế giới vật

doc 23 trang thuychi01 12812
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tích hợp kiến thức liên môn trong việc giảng dạy Chuyên đề: “Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất” môn GDCD phần triết học lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT LÊ VĂN LINH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI :TÍCH HỢP KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG VIỆC GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ: “ SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI VẬT CHẤT” MÔN GDCD PHẦN TRIẾT HỌC LỚP 10
Người thực hiện: Trịnh Thị Huyền Gái
Chức vụ: Giáo viên ,Tổ trưởng chuyên môn
Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Văn Linh
SKKN thuộc lĩnh vực môn: GDCD
THANH HOÁ NĂM 2016
 PHỤ LỤC 	 Trang
1.MỞ ĐẦU
2
1.1 Lý do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. NỘI DUNG
3
2.1.Cơ sở lý luận
3
2.2. Thực trạng của vấn đề
4
2.2.1.Thực trạng chung
4
2.2.2.Thực trạng của giáo viên
5
2.2.3.Thực trạng của học sinh
6
2.3.Các giải pháp thực hiện
6
2.3.1.Tích hợp kiến thức liên môn trong bài Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất
7
2.3.2.Tích hợp kiến thức liên môn khi dạy quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
9
2.3.3.Tích hợp kiến thức liên môn khi dạy quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
10
2.3.4.Tích hợp kiến thức liên môn khi dạy quy luật phủ định của phủ định
12
2.3.5.Tổ chức thực hiện tiết dạy theo PPCT tiết 7,8
13
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục ,với bản thân,đồng nghiệp và nhà trường
18
2.4.1. Đối với học sinh
18
2.4.2. Đối với giáo viên
18
2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm
18
 3.KẾT LUẬN ,KIẾN NGHỊ
19
3.1. Kết luận 
19
3.2. Kiến nghị
20
Tài liệu tham khảo
21
1.MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Môn GDCD là một bộ môn thuộc khoa học xã hội. Nó phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các tri thức khoa học trong môn GDCD là tri trức về triết học, CNXH khoa học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Đạo đức học, Pháp luật học, đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Các kiến thức đó được sắp xếp, bố trí hợp lí, cấu kết chặt chẽ, lô gíc phù hợp với học sinh THPT. Môn GDCD vừa có vị trí thông thường của một môn học vừa có vị trí đặc biệt của nó. Nó có nhiệm vụ như những môn học khác: trang bị tri thức, giáo dục tư tưởng tình cảm, rèn luyện kỹ năng , kỹ xảo, phát triển trí tuệ học sinh. 
Trong chương trình GDCD ở lớp 10 có 2 phần( Kiến thức triết học và đạo đức). Đây là những nội dung rất quan trọng nhằm trang bị cho học sinh những thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, giáo dục đạo đức cho học sinh. Đặc biệt là đầu chương trình lớp 10 học sinh đã phải làm quen với những kiến thức triết học mới mẻ và khá trừu tượng. Đây là những nội dung rất quan trọng có tính định hướng cho các em trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Xuyên suốt nội dung triết học ở lớp 10 là vấn đề về sự vận động và phát triển của thế giới vật chất (sự vận động, nguyên nhân vận động, cách thức vận động, khuynh hướng vận động). Để học sinh nắm vững kiến thức ở phần này là tương đối khó khăn. Lâu nay một bộ phận giáo viên thường ngại tìm tòi đổi mới phương pháp, ngại nghiên cứu các kiến thức liên môn để vận dụng vào bài dạy do đó làm ảnh hưởng ít nhiều đến hiệu quả giảng dạy cũng như ảnh hưởng đến niềm đam mê của học sinh đối với bộ môn.
 Qua kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã tìm tòi và tìm cho mình một hướng đi thích hợp để nội dung triết học không còn là sự xa lạ và khô khan đối với các em. Một trong những điều tôi thấy mỗi giáo viên cần phải làm là nên biết tích hợp kiến thức liên môn khi giảng dạy về sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Việc tích hợp đó thực sự có hiệu quả rất nhiều. Chính vì lý do đó tôi mạnh dạn lựa chọn nội dung đề tài :Tích hợp kiến thức liên môn trong việc giảng dạy chuyên đề “ Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất” môn GDCD lớp 10 để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Môn GDCD là môn học có mối quan hệ khá mật thiết với các môn khác trong chương trình giảng dạy ở trường THPT. Hệ thống kiến thức ở các lĩnh vực : Pháp luật, đạo đức, Kinh tế, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Triết học bao gồm một lượng kiến thức lớn, bản thân trong nó có chứa đựng phần nào kiến thức các khoa học khác( Toán học, Vật lý, Hóa học, Địa lý, Lịch sử). Để việc giảng dạy có hiệu quả, đặc biệt là đối với kiến thức triết học đòi hỏi cần thiết việc phối hợp với các bộ môn khác thì mới đạt hiệu quả như ta mong muốn. 
- Đánh giá thực trạng giảng dạy bộ môn GDCD nói chung và vấn đề triết học nói riêng ở trường THPT .
- Đề xuất phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình giảng dạy các kiến thức về triết mà cụ thể là: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. 
 Với đề tài: Tích hợp kiến thức liên môn trong việc giảng dạy chuyên đề “ Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất” môn GDCD lớp 10.Chọn đề tài này sẽ phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy bộ môn.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu đề tài: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất( Bài 3; Bài 4; Bài 5; Bài 6 phần triết học lớp 10 môn GDCD).
Đề tài được trực tiếp áp dụng vào giảng dạy ở các lớp 10A,10B,10C,10D tại trường THPT nơi tôi trực tiếp giảng dạy.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp chính sau:
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát qua các lớp tập huấn, chuyên đề, thảo luận, thử nghiệm thực tế và thực hiện một số tiết dạy để rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG
 2. 1. Cơ sở lý luận
Khái quát lý luận nội dung về phương pháp dạy học tích hợp.
Dạy học theo chủ đề tích hợp là là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy GDCD nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học sự nhận thức được sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội khắc phục được tính tản mạn, rời rạc trong kiến thức.
Bản chất của tích hợp là phong phú và lô- gic. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở trên thế giới và ở Việt nam trong những năm gần đây. Qua việc tích hợp của giáo viên trong một tiết lên lớp học sinh được rèn luyện thói quen, tư duy nhận thức vấn đề một cách có hệ thống và lô gicQua đó học sinh cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức được học trong nhà trường. Hầu hết các giáo viên đều thừa nhận những ưu thế của dạy học tích hợp.
Từ thực tiễn giảng dạy các giáo viên đã nhận thức được nhiều bộ môn được yêu cầu dạy học tích hợp đã tăng thêm tính hiệu quả cao.Tích hợp không những không đưa tới sự quá tải về dung lượng kiến thức mà còn làm cho bài giảng sinh động, học sinh hứng thú học tập.
Có nhiều hình thức tích hợp, xong hình thức tích hợp phổ biến nhất được giáo viên sử dụng hiện nay đang được đẩy mạnh là tích hợp liên môn. Đây là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học với kiến thức của các bộ môn khác, các nghành khoa học nghệ thuật khác cũng như như các kiến thức đời sống mà học sinh tích lũy được từ cuộc sống cộng đồng, qua đó làm giàu thêm vốn hiểu biết và phát triển nhân cách cho học sinh.
Dạy học liên môn trong môn GDCD là hình thức liên kết những kiến thức giao thoa với các môn khác như: Ngữ văn, Địa lí, Toán học, Sử họcđể học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức GDCD vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến GDCD. Trong chương trình GDCD giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp trong hầu hết các bài dạy làm tăng hứng thú cho học sinh. 
- Nội dung chương trình bộ môn GDCD có đặc điểm nổi bật: Tính lý luận, tính khái quát cao về thuộc tính cơ bản của hiện thực. Những khái niệm, những nguyên lý, quy luật, luận điểm chính trị bao quát toàn bộ đời sống hiện thực.
- Các tri thức của bộ môn GDCD có mối quan hệ hữu cơ đối với đời sống chính trị, Xã hội, Kinh tế, Văn hóa, Khoa học, Đạo đức, Pháp luật và các đường lối của Đảng.
- Các tri thức khoa học của môn GDCD đặc biệt là Triết học có mối quan hệ chặt chẽ với các tri thức của các khoa học khác.
 2.2.Thực trạng của vấn đề
2.2.1 Thực trạng chung
 Trước hết tôi phải khẳng định rằng môn GDCD có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc giáo dục con người bất luận trong xã hội nào. Kiến thức bộ môn GDCD khá phong phú và có tính khái quát cao, trang bị cho con người những hiểu biết có tính chất định hướng trong các hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình. 
Trong chương trình triết học ở lớp 10 của bộ môn GDCD, đặc biệt là đề tài nói về sự vận động và phát triển của thế giới vật chất, đây là những kiến thức khó và mới mẻ. Lồng ghép trong các bài là kiến thức của nhiều khoa học khác. Từ thực tiễn giảng dạy tôi thấy nếu giáo viên chỉ dừng lại ở việc giảng dạy kiến thức triết học một cách thuần túy thì học sinh không chỉ khó hiểu bài mà còn cảm thấy không mặn mà với môn học. Nhiều giáo viên đã ý thức được điều này và đã phát huy hết tinh thần trách nhiệm trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên còn ngại đổi mới phương pháp, ngại tìm tòi do đó đã làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy.
Môn GDCD là bộ môn góp phần trực tiếp vào việc hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Nội dung của bộ môn này rất phong phú báo gồm các kiến thức tổng hợp: Đạo đức, Pháp luật, Triết học, CNXHKH...Nội dung nào cũng quan trọng nhằm trang bị cho học sinh nhứng hiểu biết cơ bản có tính chất định hướng cho học sinh trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. 
 	Xác định được tầm quan trọng đó nên mỗi giáo viên dạy bộ môn luôn cố gắng làm tốt trách nhiệm của mình, thương xuyên tìm tòi, đổi mới phương pháp nhằm mục đích tạo ra hứng thú cho người học. Đây là bộ môn có mối liên hệ khá chặt chẽ với nhiều bộ môn khác thuộc khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
Nhiều giáo viên đã mạnh dạn đổi mới phương pháp, đặc biệt là chú trọng việc vận dụng việc tích hợp kiến thức liên môn vào bài dạy nên hiệu quả tiết học khá cao. Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên còn hời hợt trong công tác giảng dạy, chưa xác định cho học sinh được động cơ, mục đích học tập cũng như niềm say mê làm cho các em có thái độ thờ ơ thiếu gắn bó với môn học, đặc biệt là hạn chế trong việc liên hệ với kiến thức các khoa học khác.
Trong chương trình lớp 10 của môn GDCD phần đầu của sách giáo khoa là hệ thống những kiến thức về Triết học. Nội dung nhiều và tương đối khó. Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi thấy vấn đề về sự vận động của thế giới vật chất xuyên suốt cả các bài( Bài 3, Bài 4, bài 5, bài 6). Nội dung của các bài là đi sâu tìm hiểu về sự vận động và phát triển của thế giới( cách thức vận động, nguyên nhân vận động, khuynh hướng vận động). Giáo viên dạy phần này nếu không tường tận kiến thức các lĩnh vực khác cũng như không biết vận dụng các môn học khác để giải đáp trước học trò thì thật sự là khó khăn.
 	Như vậy ta thấy trên thực tế một số giáo viên chưa làm cho học sinh thấy được cái triết lý của GDCD, cái sinh động và sâu sắc của nó. Sự cảm hóa học sinh đối với môn học phải bằng tính thuyết phục bài giảng của giáo viên ở trên lớp. Điều đó đòi hỏi một trình độ chuyên môn và nghệ thuật sư phạm của giáo viên. 
2.2.2 Thực trạng đối với giáo viên
 * Giáo viên: Hiện nay giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD gặp những thuận lợi đồng thời gặp không ít khó khăn khi giảng dạy bộ môn này.
 + Thuận lợi:
- Chương trình sách giáo khoa có nhiều cải tiến nên tạo được sự hứng thú cho học sinh.
- Tài liệu hỗ trợ công tác giảng dạy khá phong phú.
- Việc trang bị các thiết bị dạy học đã hỗ trợ khá tốt cho công tác giảng dạy
- Đội ngũ giáo viên được đạo tạo bài bản, có phương pháp tốt.
+ Khó khăn:
- Một bộ phận giáo viên ngại tự học, tự bồi dưỡng.
- Việc ứng dụng thiết bị hiện đại vào hoạt động dạy và học còn hạn chế.
- Vận dụng kiến thức liên môn còn chưa được quan tâm một cách thường xuyên.
- Nội dung triết học ở chương trình lớp 10 có tính định hướng về mặt nhận thức và thực tiễn nhưng do kiến thức khá trừu tượng nên việc giảng dạy gặp không ít khó khăn.
2.2.3 Thực trạng đối với học sinh
 Nhiều học sinh đã nhận thức được ý nghĩa to lớn của bộ môn nên đã tiếp thu bài học tốt. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số em xem việc học chỉ là sự đối phó. Vì vậy đây cũng chính là trở ngại cho giáo viên khi giảng dạy bộ môn này, đặc biệt là nội dung triết học ở lớp 10. Chừng nào mà chưa phát huy được tinh thần hợp tác của học sinh thì hoạt động dạy và học sẽ khó phát huy hết hiệu quả.
2.3. Các giải pháp thực hiện
 Do đặc điểm kiến thức môn GDCD, bản thân môn học đã chứa đựng kiến thức liên môn nên trong quá trình dạy thì việc tích hợp với kiến thức của các bộ môn khác là điều không thể thiếu, nhưng vấn đề đặt ra là việc sử dụng kiến thức liên môn như thế nào mới đem lại hiệu quả. Qua thực tiễn dạy học, tôi rút ra một số vấn đề cần lưu ý đối với việc tích hợp kiến thức liên môn khi dạy các bài liên quan đến sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
Thứ nhất: Đối với từng bài, từng phần, xuất phát từ mục tiêu môn học, chuẩn kiến thức, từ đối tượng học sinh và đặc biệt xuất phát từ đặc điểm tri thức khoa học cụ thể người giáo viên cần lựa chọn kiến thức liên môn phù hợp. Nếu việc lựa chọn không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng hiểu sai, lệch lạc vấn đề, làm bài dạy thêm rối và phức tạp.
 	Thứ hai: Khi tích hợp kiến thức liên môn phải bảo đảm nội dung và cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra những chân trời mở cho sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của học sinh, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học, phải gợi cho học sinh để học sinh sử dụng những kiến thức đã có , đã được học ở các môn khác vận dụng vào bài học.
Thứ ba: Để sử dụng được kiến thức liên môn, người giáo viên cần có khối lượng kiến thức sâu rộng, sau đó phải vận dụng một cách khéo léo có lựa chọn những chi tiết sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu của bài giảng.
Trên thực tế kiến thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có mối quan hệ khăng khít với nhau. Để phát triển một cách toàn diện đòi hỏi mối người phải có nhận thức đầy đủ cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội, điều này sẽ giúp quá trình nhận thức của con người về thế giới sẽ trọn vẹn và đúng đắn hơn
 	Kiến thức của các môn khoa học tự nhiên như: Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh họcgiúp học sinh có những tư duy khoa học, lô gic. Và nếu chúng ta biết vận dụng những kiến thức đó trong bài dạy GDCD, đặc biệt là nội dung triết học thì những lý luận trừu tượng sẽ được hiểu một cách dễ dàng, đơn giản hơn.
 	Trong chương trình GDCD 10, ở các bài 3, 4, 5, 6 giáo viên có thể vận dụng kiến thức của các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội để giải thích các khái niệm, nội dung, lấy các ví dụ liên quan. Cụ thể:
2.3.1.Tích hợp kiến thức liên môn trong bài “ Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất’
Bài 3 : Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất
Trọng tâm của bài: Giáo viên làm rõ quan điểm của Triết học Mác- Lê-nin
về sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
Bài này kiến thức được chia làm 3 nội dung:
Mục 1: Thế giới vật chất luôn luôn vận động
Mục 2: Thế giới vật chất luôn luôn phát triển
Giáo viên sẽ vận dụng kiến thức liên môn để làm rõ các hình thức vận động (Triết học Mác- Lê-nin đã khái quát 5 hình thức vận động cơ bản).
- Vận động cơ học
- Vận động vật lý
- Vận động hóa học
- Vận động sinh học 
- Vận động xã hôi
Nội dung phần này cần có sự hỗ trợ của kiến thức của các bộ môn: Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử để làm rõ các hình thức vận động.
* Vận động Vật lý ( kiến thức bộ môn Vật lý)
Giáo viên chọn một vài ví dụ để học sinh dễ nắm bắt.
Ví dụ : Khi đun nước, nhiệt độ của nước sẽ thay đổi. Em hãy nhận xét sự vận động của các phân tử nước.
KL: Nhiệt độ của nước càng cao thì sự vận động của các phân tử nước càng nhanh.
Như vậy bằng một ví dụ rất thực tế học sinh sẽ giải thích được một hiện tượng trong vật lý, các em sẽ hiểu được hình thức vận động vật lý.
* Vận động hóa học( vận dụng kiến thức Hóa học)
GV vận dụng kiến thức của bộ môn hóa để làm rõ nội dung này.
Ví dụ: Sự hóa hợp và phân giải giữa các chất
Cho học sinh so sánh các chất trước và sau khi phản ứng
Na + Cl2 NaCl
H2 + Cl2	HCl
C2H4 + H2	 C2H6
KL : Do sự kết hợp giữa các nguyên tố hóa học đã tạo nên những hợp chất mới.
* Vận động sinh học( vận dụng kiến thức Sinh học)
Ví dụ: Hãy giải thích hiện tượng quang hợp của cây trồng? 
KL: Quang hợp là quá trình lá cây có chất diệp lục, sử dụng nước, khí cacbonic và năng lượng ánh sáng mặt trời chế tạo ra tinh bột và nhả khí ôxi.
* Vận động xã hội( vận dụng kiến thức Lịch sử)
Giáo viên cho học sinh nêu ví dụ về vận động xã hội. Sau đó giáo viên sử dụng kiến thức bộ môn Lịch sử để làm rõ nội dung sự vận động xã hội.
Cụ thể: Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam là cuộc kháng chiến có mục đích rõ ràng là giành độc lập cho Tổ quốc, giành tự do cho nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến này, tinh thần dũng cảm, tinh thần sáng tạo của nhân dân ta thật là tuyệt vời( bộ đội phòng không của ta dựa vào khoa học kỹ thuật hiện đại đã tìm ra cách chống nhiễu của máy bay B-52 và do đó đã lập nên kỳ tích Điện Biên Phủ trên không).
KL: Vận động xã hội là hình thức vận động cao nhất vì đây là hình thức vận động có mục đích.
2.3.2.Tích hợp kiến thức liên môn khi dạy về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa những mặt đối lập
Bài 4 :Nguồn gốc vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng
Bài này nhằm làm cho học sinh hiểu được nguồn gốc vận động của thế giới vật chất. 
Nội dung cơ bản của bài này là: Quy luật mâu thuẫn - hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển( bao gồm trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy).
Nội dung của bài này gồm: 
Mục 1: Thế nào là mâu thuẫn
Mục 2: Mâu thuẫn là nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
Để làm rõ nội dung quy luật này đòi hỏi giáo viên phải vận dụng khá nhiều kiến thức của các khoa học khác để làm rõ tính chất quy luật. Các khoa học có thể vận dụng khi giảng bài này là: Toán học, sinh học, Vật lý, văn học.
Để hiểu khái niệm mâu thuẫn đòi hỏi giáo viên phải cho học sinh hiểu thế nào là mặt đối lập.
Ví dụ 1: Cặp đối lập giữa đồng hóa và dị hóa
+ Vận dụng kiến thức sinh học để làm rõ quy luật này.
Đồng hóa là quá trình tổng hợp chất hữu cơ trong mỗi tế bào chính là quá trình tích lũy năng lượng.
 Dị hóa là sự phân giải các chất hữu cơ được tổng hợp trong quá trình đồng hóa, là sự giải phóng năng lượng dưới dạng năng lượng sinh học- được sử dụng trong hoạt động sống của cơ thể. 
KL: Mặt đối lập của mâu thuẫn là những khuynh hướng, tính chất, đặc điểmmà trong quá trình vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, chúng phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau.
Ví dụ 2: Lực hút và lực đẩy
+ GV vận dụng kiến thức môn vật lý để giải thích.
 Ví dụ 3: Vân dụng kiến thức văn học để làm rõ nội dung mâu thuẫn.
Để tạo sự hứng thú cho học sinh và để khắc phục sự khô khan của kiến thức triết học giáo viên có thể kết hợp với kiến thức văn học, cụ thể là sử dụng những câu thơ thẫm đẫm cảm xúc không chỉ làm cho học sinh dễ hiểu mà còn làm cho các em cảm thấy rất nhẹ nhàng khi tìm hiểu triết học, cảm thấy triết học cũng thực sự gần gũi với các em. Qua việc trang bị kiến thức giáo viên kết hợp giáo dục lý tưởng sống cho các em.
Cụ thể: Giáo viên lựa chọn một số câu thơ hay trong bài “ Người đi tìm hình của nước của Chế Lan Viên” để tìm ra mâu thuẫn:
“Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”
“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa”
KL: Mâu thuẫn được thể hiện trong những câu thơ trên đó là sự đối lập giữa hình ảnh một vị lãnh tụ suốt cuộc đời hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, một con người luôn đau đáu nỗi đau của một

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_kien_thuc_lien_mon_trong_viec_giang_day_chuyen.doc