SKKN Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn theo định hướng phát triển năng lực học sinh phần Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954 (lớp 12 THPT - Chương trình chuẩn)

SKKN Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn theo định hướng phát triển năng lực học sinh phần Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954 (lớp 12 THPT - Chương trình chuẩn)

Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực này được chú ý nhiều từ những năm 90 của thế kỉ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế trong cải cách giáo dục ở các trường phổ thông.

Nắm bắt xu hướng này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Như vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khẳng định đổi mới giáo dục không chỉ là “quốc sách hàng đầu”, là “chìa khóa mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước” mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.

 

doc 28 trang thuychi01 6901
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn theo định hướng phát triển năng lực học sinh phần Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954 (lớp 12 THPT - Chương trình chuẩn)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến
3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.3.1. Khái niệm “Trắc nghiệm khách quan”
4
2.3.2. Quy trình, kĩ thuật xây dựng ma trận và biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
5
2.3.3. Những yêu cầu, nguyên tắc khi thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
5
2.3.4. Cách thức xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
5
2.3.5. Các mức độ nhận thức trong câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
6
2.3.6. Thiết kế câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn theo định hướng phát triển năng lực phần lịch sử Việt Nam 1945 – 1954
8
2.3.6.1.Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954
8
2.3.6.2. Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm theo định hướng năng lực trong dạy học Lịch sử Việt Nam (1945-1954)
10
2.3.6.3.Thiết kế một số câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn phần Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954 ( lớp 12 THPT- Chương trình chuẩn)
17
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
22
3. Kết luận và kiến nghị
23
3.1. Kết luận
23
3. 2. Kiến nghị
24
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN đã được Hội đồng SKKN cấp ngành đánh giá đạt từ loại C trở lên
Phụ lục
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài: 
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực này được chú ý nhiều từ những năm 90 của thế kỉ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế trong cải cách giáo dục ở các trường phổ thông.
Nắm bắt xu hướng này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Như vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khẳng định đổi mới giáo dục không chỉ là “quốc sách hàng đầu”, là “chìa khóa mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước” mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay, “Đổi mới kiểm tra đánh giá được xác định là khâu đột phá trong đổi mới giáo dục”. Đặc biệt, ngày 28/9/2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số 4818/BGDĐT-KTCLGD quy định về phương án tổ chức thi THPT Quốc gia năm 2017. Theo đó, môn lịch sử sẽ thi theo hình thức trắc nghiệm khách quan theo nhóm bài thi môn xã hội. Như vậy, từ năm học 2016 - 2017, Bộ Giáo dục chuyển từ hình thức thi tự luận sang thi trắc nghiệm khách quan nên việc đổi mới, điều chỉnh phương pháp dạy học, ôn tập và kiểm tra đánh giá theo hình thức trắc nghiệm khách quan là hết sức cần thiết. 
Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến 1954, lớp 12 THPT giữ một vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là lịch sử của cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng để giữ vững nền độc lập. Đó là lịch sử của nghệ thuật giành, xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân của Đảng ta, là lịch sử của công cuộc kháng chiến và kiến quốc... Chặng đường lịch sử đó đã in đậm bao chiến công oanh liệt của dân tộc cũng như đã để lại biết bao bài học quý báu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hình thức thi trắc nghiệm khách quan nhằm định hướng phát triển năng lực, từ thực tiễn giảng dạy ở trường THPT, tôi đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài “Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn theo định hướng phát triển năng lực học sinh phần Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954 ( lớp 12 THPT - chương trình chuẩn) ” .
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đáp ứng việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới trong kỳ thi THPT quốc gia hiện nay.
Đổi mới kiểm tra – đánh giá theo hình thức trắc nghiệm khách quan không chỉ nhằm ghi nhận kết quả đạt được của học sinh mà còn hướng vào việc đề xuất những phương hướng đổi mới, cải thiện thực trạng, điều chỉnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh khối 12 nhằm trang bị tốt về kiến thức cho kì thi THPT Quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo.
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết; Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; Phương pháp thống kê, xử lý số liệu; Phương pháp so sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá, vận dụng liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
	2.1. Cơ sở lí luận: 
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung và bậc trung học phổ thông nói riêng, hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong giáo dục không còn là mối quan tâm của cá nhân nào mà đây là vấn đề chung của toàn xã hội.
 Hơn nữa, theo chủ trương đổi mới kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong kì thi THPT quốc gia năm học 2016-2017, đã áp dụng hình thức thi trắc nghiệm khách quan. Như thế, việc tiếp cận phương pháp trắc nghiệm khách quan đang trở thành một vấn đề cấp bách trong hoạt động dạy và học ở các trường THPT nước ta hiện nay. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Thực trạng dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay đang tồn tại nhiều vấn đề có những mặt tích cực và cũng có những mặt hạn chế.
Về phía giáo viên, về cơ bản giáo viên giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT đều có kiến thức chuyên môn đạt chuẩn, nhận thức đúng đắn về vai trò của bộ môn trong trường THPT, đã có xu hướng đổi mới phương pháp dạy học sao cho thu hút hấp dẫn và thực tế hơn. Các cấp quản lý quan tâm và chỉ đạo thường xuyên việc dạy và học bộ môn. Việc Lịch sử trở thành môn thi chính thức trong kì thi THPT quốc gia năm 2017 đã tạo chuyển biến tích cực trong dạy và học để thích ứng với yêu cầu đánh giá của kì thi này.
Tuy nhiên, việc dạy học lịch sử vẫn hướng tới việc cung cấp các sự kiện lịch sử có sẵn trong sách giáo khoa, bài giảng của giáo viên chủ yếu hướng tới việc giúp học sinh ghi nhớ kiến thức mà chưa chú ý tới phát triển tư duy, năng lực cho học sinh. Học sinh chưa thực sự hứng thú đối với môn học, kết quả thi môn lịch sử thi THPT quốc gia vẫn còn thấp so với các môn khác ... 
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này thì rất nhiều. Song với tư cách của người dạy học, chúng ta cần nhìn nhận một cách thẳng thắn và nghiêm túc vào những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía người dạy như chậm đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên đôi khi quá chú tâm tới việc truyền đạt kiến thức mà quên đi nhiệm vụ bồi đắp những nhận thức, tình cảm đúng đắn cho cho học sinh trước quá khứ, hiện tại và tương lai.
Ngoài ra cũng có những nguyên nhân khách quan như những quan niệm chưa đúng về bộ môn từ các cấp quản lý, từ xã hội, tới cha mẹ học sinh và cả học sinh coi đây là một môn phụ, ít tính ứng dụng vào đời sống và gắn liền việc học tập với mục đích thi cử nên không coi trọng bộ môn... 
Về phía học sinh, học sinh ở các trường THPT đều thích được làm bài tập lịch sử, bài tập mà các em thích được sử dụng chủ yếu là bài tập trắc nghiệm và bài tập nhận thức. Tuy nhiên, kĩ năng làm bài của các em còn kém, chưa đầu tư nhiều công sức và thời gian cho bài tập. 
 	Thi Lịch sử bằng hình thức trắc nghiệm với ưu điểm là sự khách quan, có thể kiểm tra chất lượng giáo dục bằng con số cụ thể, không dựa vào cảm tính của giáo viên chấm bài thi. Với hình thức thi này, học sinh không phải thuộc lòng quá nhiều. Thay vào đó, các em cần đọc sách nhiều, hiểu bài và có khả năng tổng hợp, đánh giá, biết kết nối các vấn đề, suy luận để lựa chọn đáp án là có thể hoàn thiện bài thi. Tuy nhiên, một thực tế phổ biến hiện nay là học sinh THPT không dành thời gian đọc và nghiên cứu kĩ nội dung bài học trong sách giáo khoa và các nguồn tài liệu tham khảo, nên không nắm vững kiến thức cơ bản và hiểu bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử, mà luôn trông chờ, ỷ lại vào nguồn tài liệu và ngân hàng câu hỏi, đề thi và đáp án có sẵn. Phần lớn học sinh rất hạn chế các kiến thức nền xã hội bên ngoài sách vở, tình trạng lúng túng bị động với những câu yêu cầu suy luận, phân tích mà đáp án khá giống nhau. 
Với các nguyên nhân như vậy thì kết quả học tập và giảng dạy môn lịch sử chưa đạt yêu cầu là điều hoàn toàn có thể lí giải được. Từ đó, càng đặt ra vấn đề mỗi người dạy cần thay đổi một cách tích cực, hướng tới việc nâng cao chất lượng giảng dạy, đồng thời giúp học sinh phát huy những năng lực của bản thân ứng dụng vào thực tế hoạt động xã hội sau này.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
	2.3.1. Khái niệm “Trắc nghiệm khách quan”
“Trắc nghiệm”, trong Tiếng Anh viết là “test” nghĩa là “kiểm tra”. Còn theo chữ Hán thì “trắc” nghĩa là “đo lường”, “nghiệm” là “suy xét”, từ đó suy ra “trắc nghiệm” có nghĩa là “kiểm tra”. 
“Khách quan”, trong Tiếng Anh viết là “objective”. Còn theo chữ Hán thì “khách quan” nghĩa là “không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan”. 
Như vậy, trắc nghiệm khách quan đối với môn Lịch sử là phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi có nội dung trong môn học Lịch sử mà đáp án của chúng mang tính chất khách quan, không phụ thuộc hoặc ít phụ thuộc vào ý thức của người kiểm tra. 
2.3.2. Quy trình, kĩ thuật xây dựng ma trận và biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều dạng, như: Câu hỏi đúng/sai; Câu hỏi điền khuyết/điền thế; Câu hỏi ghép đôi; Câu hỏi phân loại; Câu hỏi làm việc với đồ dùng trực quan. Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài này Tôi chỉ đề cập đến dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn (Multiple Choice Questions - MCQ). Do khi chấm điểm bằng máy, máy không nhận dạng được các dạng câu hỏi khác.
2.3.3. Những yêu cầu, nguyên tắc khi thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan có nhiều lựa chọn thường gồm 2 phần:
Phần 1: Câu dẫn nhằm nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết giúp học sinh hiểu rõ câu hỏi cần phải trả lời, yêu cầu cần thực hiện, vấn đề cần giải quyết.
Phần 2: Các phương án để học sinh lựa chọn, trong đó chỉ có 1 phương án đúng hoặc đúng nhất, còn lại là các phương án gây nhiễu.
1. Cần xác định đúng mục tiêu của việc kiểm tra, đánh giá để từ đó xây dựng câu hỏi cho phù hợp.
2. Nội dung phần dẫn cần rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn, tường minh, để học sinh chỉ hiểu theo 1 cách. Từ đã dùng trong phần dẫn không nên dùng lại ở bất kì phương án lựa chọn nào nữa. 
 3. Phần dẫn và phần phương án tránh những chi tiết phức tạp, không cần thiết, vừa sức, phù hợp với trình độ học sinh.
 4. Khi soạn các phương án, không được để lộ rõ ý chính của câu trả lời để học sinh có thể dễ dàng đoán nhận ngay qua cách dùng từ. Số phương án lựa chọn càng nhiều thì khả năng đoán đúng càng nhỏ.
5. Các phương án nhiễu phải có vẻ hợp lý như phương án đúng cả về hình thức và nội dung. 
 6. Câu hỏi không được sai sót về nội dung chuyên môn, nằm trong nội dung kiến thức Lịch sử học sinh được học (chú ý không nằm trong phần giảm tải). 
 7. Câu hỏi cần khai thác tối đa việc vận dụng các kiến thức để giải quyết các tình huống thực tế trong cuộc sống.
 8. Các ký hiệu, thuật ngữ sử dụng trong câu hỏi phải thống nhất.
2.3.4. Cách thức xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
* Câu dẫn là một câu hỏi thì phải có từ để hỏi. Các phương án trả lời là một câu độc lập nên được viết hoa ở đầu câu và có dấu chấm ở cuối câu.
 Ví dụ:
 Sự kiện nào đánh dấu giai cấp công nhân Việt Nam bước đầu chuyển từ đấu tranh “tự phát” sang đấu tranh “tự giác”?
A. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son (8 - 1925).
B. Phong trào “vô sản hóa” (1928).
C. Cuộc bãi công ở đồn điền cao su Phú Riềng (1929).
D. Cuộc bãi công ở nhà máy xi măng Hải Phòng (1928).
* Câu dẫn là một mệnh đề chưa hoàn chỉnh (câu bỏ lửng) thì phải nối liền với các phương án trả lời để trở thành câu hoàn chỉnh. Đầu câu không viết hoa (trừ tên riêng, tên địa danh) và có dấu chấm ở cuối câu.
Ví dụ: Biến đổi lớn nhất của các nước Đông Nam Á từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai là
A. trở thành các quốc gia độc lập.
B. trở thành khu vực năng động và phát triển.
C. trở thành khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị.
D. thành lập tổ chức ASEAN, đẩy mạnh hợp tác trong khu vực.
* Câu dẫn là câu phủ định: phải in đậm từ phủ định để học sinh xác định đúng câu trả lời.
Ví dụ: Nội dung nào sau đây không nằm trong quyết định của Hội nghị Ianta?
A. Hợp tác giữa các nước nhằm khôi phục lại đất nước sau chiến tranh.
B. Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
C. Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản.
D. Thỏa thuận về việc đóng quân giữa các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á.
2.3.5. Các mức độ nhận thức trong câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
Mô tả 4 mức độ yêu cầu của câu hỏi 
1. Nhận biết: nhắc lại hoặc mô tả đúng kiến thức, kĩ năng đã học.
2. Thông hiểu: diễn đạt đúng kiến thức hoặc mô tả đúng kĩ năng đã học bằng ngôn ngữ theo cách của riêng mình, có thể thêm các hoạt động phân tích, giải thích, so sánh, áp dụng trực tiếp (làm theo mẫu) kiến thức, kĩ năng đã biết để giải quyết các tình huống, vấn đề trong học tập.
3. Vận dụng: kết nối và sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết thành công tình huống, vấn đề tương tự tình huống, vấn đề đã học.
4. Vận dụng cao: vận dụng được các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các tình huống, vấn đề mới, không giống với những tình huống, vấn đề đã được hướng dẫn; đưa ra những phản hồi hợp lí trước một tình huống, vấn đề mới trong học tập hoặc trong cuộc sống. 
a. Câu hỏi mức độ nhận biết: 
- Chỉ yêu cầu học sinh sử dụng những thao tác tư duy đơn giản: khả năng nhận biết, tái hiện, ghi nhớ nội dung kiến thức lịch sử của học sinh .
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề thi tự luận với các từ để hỏi là: nêu, trình bày, tóm tắt, liệt kê 
Ví dụ: Một trong những mục đích của tổ chức Liên hợp quốc là 
A. ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động gây chiến tranh.
B. thúc đẩy quan hệ thương mại quốc tế.
C. duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
D. ngăn chặn sự đe dọa an ninh quốc tế.
b. Câu hỏi mức độ thông hiểu: 
- Yêu cầu học sinh sử dụng những thao tác tư duy tương đối đơn giản không quá phức tạp, trừu tượng như: lí giải, giải thích các nội dung kiến thức lịch sử cơ bản.
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề thi tự luận có từ để hỏi là: giải thích, lý giải, như thế nào, tại sao, vì sao 
Ví dụ: Trật tự thế giới hai cực Ianta được hình thành trên cơ sở nào?
 A. Những quyết định của Hội nghị Ianta.
 B. Những thoả thuận sau Hội nghị Ianta của ba cường quốc.
 C. Những quyết định của Hội nghị Ianta cùng với những thoả thuận sau Hội nghị Ianta của ba cường quốc.
 D. Những quyết định của các nước thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. 
c. Câu hỏi ở mức độ vận dụng: 
- Yêu cầu học sinh sử dụng các thao tác tư duy cao hơn mức độ thông hiểu như: so sánh, phân tích, tổng hợp... nội dung kiến thức lịch sử. Đây là câu hỏi khó hơn, đòi hỏi học sinh bước đầu phải biết suy luận bằng phân biệt sự giống và khác nhau, phân tích, tổng hợp hệ thống kiến thức để lựa chọn giữa các phương án.
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề tự luận có từ để hỏi là: so sánh, phân tích, tổng hợp, lập bảng thống kê so sánh, đối chiếu các nội dung kiến thức lịch sử. 
Ví dụ: Điểm giống nhau của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” với các chiến lược chiến tranh trước đó của Mĩ là gì?
A. Tìm cách chia rẽ Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa.
B. Gắn “Việt Nam hoá” với “Đông Dương hoá chiến tranh”.
C. Được tiến hành bằng quân đội tay sai là chủ yếu, có sự phối hợp đáng kể của quân đội Mĩ.
D. Là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam, nằm trong “Chiến lược toàn cầu” của Mĩ.
d. Câu hỏi ở mức độ vận dụng cao: 
- Đây là câu hỏi ở mức độ cao nhất, yêu cầu đánh giá khả năng sáng tạo, vận dụng kiến thức để đánh giá, nhận xét nội dung kiến thức lịch sử, liên hệ kiến thức với các vấn đề thực tiễn. Câu hỏi đề cập tới các nội dung kiến thức khá sâu sắc và đòi hỏi tư duy cao. 
- Tương đương cách hỏi thông thường trong đề tự luận có từ để hỏi là bình luận, nhận xét, đánh giá, liên hệ thực tiễn, rút ra bài học/kinh nghiệm
Ví dụ: Điểm mới của Hội nghị tháng 5-1941 so với Hội nghị tháng 11-1939 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương là gì?
A. Thành lập mặt trận thống nhất dân tộc rộng rãi chống đế quốc.
B. Đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc, phong kiến. 
C. Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương.
D. Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thực hiện giảm tô, giảm tức.
* Một số lưu ý khi thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn 
1. Ý chính để hỏi phải nằm trong câu dẫn (tốt nhất nên để ở đầu câu), không được đưa vào các đáp án.
2. Phải có chắc chắn một câu trả lời đúng (có thể có phương án đúng hoặc đúng nhất).
3. Không nên sử dụng xu hướng phương án đúng luôn dài hơn các phương án còn lại.
4. Những phương án nhiễu tránh quá khác biệt so với phương án đúng.
5. Phương án trả lời không được gợi ý cho nhau, câu sau không là đáp án của câu trước.
6. Không nên trích dẫn nguyên văn những câu có sẵn trong SGK ở phần đáp án.
7. Từ ngữ, cấu trúc của câu hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi học sinh.
8. Mỗi phương án nhiễu phải hợp lý đối với những học sinh không nắm vững kiến thức.
9. Mỗi phương án sai nên xây dựng dựa trên các lỗi hay nhận thức sai lệch của học sinh.
10. Đáp án đúng của câu hỏi này phải độc lập với đáp án đúng của các câu hỏi khác trong bài kiểm tra. 
11. Phần lựa chọn phải thống nhất và phù hợp với nội dung của câu dẫn. 
12. Không đưa ra phương án “Tất cả các đáp án trên đều đúng” hoặc “không có phương án nào đúng” hoặc có hai hoặc ba phương án đúng.
13. Các phương trả lời nên có độ dài tương tự nhau. Nếu độ dài khác nhau thì xếp thứ tự từ ngắn đến dài hoặc ngược lại, khi có các mốc thời gian nên sắp xếp theo thứ tự thời gian (nhưng phải thống nhất).
14. Xây dựng đáp án đúng trước khi xây dựng các phương án nhiễu.
15. Sự phân biệt các mức độ nhận thức trong câu hỏi chỉ mang tính tương đối, đôi khi khó tách bạch.
16. Câu hỏi không được vi phạm về đường lối chủ trương, quan điểm chính trị của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc lịch sử.
2.3.6. Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn theo định hướng phát triển năng lực phần lịch sử Việt Nam 1945 – 1954.
2.3.6.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.
	* Vị trí:
Trong chương trình SGK Lịch sử lớp 12 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_thiet_ke_cau_hoi_trac_nghiem_khach_quan_co_nhieu_lua_ch.doc