SKKN Sử dụng kỹ thuật sơ đô tư duy nhằm tạo hứng thú học tập, giúp học sinh học tốt môn công nghệ 11 ở trường thpt
Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người - là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, trong xu thế của hội nhập và phát triển, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật kéo theo sự bùng nổ của công nghệ thông tin đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ cả về nội dung chương trình và phương pháp, kỹ thuật dạy học. Trong đó, đổi mới phương pháp, kỹ thuật dạy học có ý nghĩa chiến lược.
Mặt khác, mục tiêu của giáo dục Việt Nam ngày nay là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp. Về cách học, khuyến khích học sinh lấy tự học là chính, học tập một cách chủ động và sáng tạo. Chính vì thế, việc hình thành và rèn luyện cho người học sự hiểu biết, tâm thế chủ động điều khiển quá trình học tập của bản thân, phát huy nội lực là việc làm cấp thiết của các nhà giáo dục.
Nghị quyết trung ương 2 khoá VIII đã khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh ”. [3]
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG KỸ THUẬT SƠ ĐÔ TƯ DUY NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP, GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN CÔNG NGHỆ 11 Ở TRƯỜNG THPT. Người thực hiện: Trịnh Thị Hậu Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Công nghệ CN THANH HOÁ NĂM 2019 MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài....... 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu....... 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu.. 2 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.. 3 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.... 4 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.... 6 2.3.1.Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy......................... 6 2.3.2.Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ.......... 8 2.3.3. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy vào tìm hiểu từng nội dung.... 10 2.3.4. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ trong việc củng cố kiến thức bài học.... 13 2.3.5. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy hỗ trợ cho các tiết ôn tập........... 15 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 16 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 18 3.1. Kết luận.... 18 3.2. Kiến nghị.. 20 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người - là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, trong xu thế của hội nhập và phát triển, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật kéo theo sự bùng nổ của công nghệ thông tin đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ cả về nội dung chương trình và phương pháp, kỹ thuật dạy học. Trong đó, đổi mới phương pháp, kỹ thuật dạy học có ý nghĩa chiến lược. Mặt khác, mục tiêu của giáo dục Việt Nam ngày nay là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp. Về cách học, khuyến khích học sinh lấy tự học là chính, học tập một cách chủ động và sáng tạo. Chính vì thế, việc hình thành và rèn luyện cho người học sự hiểu biết, tâm thế chủ động điều khiển quá trình học tập của bản thân, phát huy nội lực là việc làm cấp thiết của các nhà giáo dục. Nghị quyết trung ương 2 khoá VIII đã khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. [3] Bên cạnh đó nội dung môn học công nghệ quá nặng nề, khô khan, kém hấp dẫn, đội ngũ giáo viên đào tạo đúng chuyên nghành còn thiếu, xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, sức thuyết phục của chương trình còn ở mức độ, tâm lí coi nhẹ môn học của học sinh.....và còn nhiều lí do khác nữa được đưa ra để biện minh cho một thực tế là chất lượng và hiệu quả của giờ học chưa cao. Song tôi thiết nghĩ mấu chốt của vấn đề là ở chỗ bản thân người giáo viên Công nghệ cũng đang dạt theo sự ngại học của học sinh, chưa tích cực tìm giải pháp nâng cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức ấy phải được tổ chức thế nào để giúp học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng và hứng thú, chính vì vậy giáo viên cũng chưa có sự đầu tư cho môn học, tiết học còn diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, chưa áp dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực, học trò học đối phó, chiếu lệ, không tập trung, giờ học chưa gây được hứng thú nên hiệu quả giáo dục của bộ môn chưa thực sự đạt được theo yêu cầu. Đặc biệt chương trình môn công nghệ lớp 11 nội dung mang nặng tính chất nguyên lý kỹ thuật, trừu tượng, mờ nhạt, khô khan, khó hiểu, gây khó khăn trong quá trình tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức vừa ghi nhớ. Do đó kí ức khó ghi nhận và tái hiện lại khi cần thiết. Vì vậy cần cụ thể hóa, vật chất hóa, làm cho lý thuyết cụ thể rõ nét, sâu sắc và có tính thuyết phục hơn, biến những gì thuộc về lý thuyết trừu tượng thành cái cụ thể, tổng hợp logic và khoa học. Để tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học với định hướng “lấy học sinh làm trung tâm” và nhằm mục đích phát triển năng lực cho học sinh. Là giáo viên dạy môn Công nghệ tôi luôn xác định rằng: Bản thân cần phải năng động, sáng tạo và linh hoạt trong sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học. Phải khơi dậy được ở học sinh niềm đam mê hứng thú với tiết học, môn học như Bác Hồ đã từng dạy: “Siêng học tập thì mau biết, siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến”, “các thầy nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực” [5] mới tạo được hứng thú học tập, phát triển được năng lực người học và đạt được mục tiêu giáo dục như mong muốn. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài: “Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy nhằm tạo hứng thú học tập, giúp học sinh học tốt môn công nghệ 11 ở trường THPT” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2018 - 2019. Đây là vấn đề khiến tôi suy nghĩ rất nhiều trong quá trình công tác giảng dạy ở trường THPT Triệu Sơn 3, đề tài thực sự thiết thực và rất cần thiết hiện nay trong dạy học môn học. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng một hệ thống các sơ đồ tư duy được sử dụng trong nội dung các bài học, kiểm tra bài cũ, tổng kết bài, đặc biệt là các tiết ôn tập chương, giúp học sinh sáng tạo, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ tốt hơn, và nhìn thấy bức tranh tổng thể của cả bài. Từ đó giúp phát huy hiệu quả sự sáng tạo và đóng góp của từng thành viên trong nhóm khi làm việc theo nhóm. Hay nói cách khác giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh ghi chép tổng hợp nội dung bài theo sơ đồ tư duy. Vì vậy làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, không bị khô khan, nặng nề nhàm chán nhưng cũng không làm ảnh hưởng tới mục tiêu của bài học. Qua quá trình nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm tôi đã giải tỏa được những vướng mắc mà trước đây khi dạy học tôi đã gặp phải. Từ đó tạo được niềm tin cho đồng nghiệp và học sinh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khai thác hệ thống một số bài có thể sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy thuộc môn công nghệ khối 11. - Đề tài phân tích thực trạng hứng thú học tập của học sinh đối với môn công nghệ. - Tìm hiểu nguyên nhân làm học sinh chưa hứng thú, chưa đam mê với môn học. - Đề tài khảo sát, đánh giá được thực trạng việc học tập của học sinh một số lớp được chọn làm đối tượng nghiên cứu trước và sau tác động. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết Nghiên cứu sách giáo khoa, báo, tài liệu, giáo trình, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết cơ bản liên quan đến nội dung đề tài. Trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp khái quát, rút ra những vấn đề cần thiết cho đề tài. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin Tham gia dự giờ lấy ý kiến của thầy cô phụ trách việc giảng dạy môn công nghệ ở trường. Từ đó xác định được những khó khăn trong việc triển khai dạy học môn công nghệ. Thăm dò trao đổi ý kiến với giáo viên về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Tiếp thu ý kiến của các thầy cô giáo khi tiến hành xây dựng các nội dung bài học liên quan đến nội dung đề tài, điều tra hứng thú học tập môn học của học sinh. Phương pháp thực nghiệm Trên cơ sở đề xuất ý tưởng đề tài sẽ giúp chúng ta sẽ khắc sâu kiến thức, đồng thời tiến hành soạn giáo án thực nghiệm, thực hiện việc thực nghiệm tại trường nhằm kiểm chứng kết quả nghiên cứu và đề xuất của đề tài. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu Thông qua kết quả quan sát tiết dạy, phân tích, kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh, xử lý thống kê toán học rồi rút ra những kết luận cần thiết. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Dạy học là một quá trình nhận thức, là quá trình hoạt động của thầy – trò, trong đó học sinh vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động học. Nhiệm vụ của quá trình dạy học là hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo và phải làm cho trí tuệ của học sinh phát triển, phát hiện ra những dự trữ về sự phát triển trí tuệ của học sinh tiềm tàng ngay trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó vai trò của thầy cô giáo là người tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo cho học sinh các hoạt động trong giờ học. Giáo viên cần cân nhắc, chọn lọc, sắp xếp theo trình tự logic để chuyển tải kiến thức sao cho phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật dành cho dạy học, đặc biệt là phù hợp với từng đối tượng học sinh, làm thế nào để mọi học sinh trong lớp đều tham gia hoạt động, vừa đảm bảo nhịp độ chung nhưng cũng là điều kiện cho học sinh phát triển hết năng lực của bản thân. Để tăng cường hiệu quả giáo dục nói chung. Khoản 2 - Điều 28 - Luật Giáo dục đã chỉ rõ: “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. [4] Muốn vậy, phải tiến hành áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, từng bước chuyển cách dạy và học từ chỗ trang bị kiến thức cho học sinh sang dạy học sinh cách tiếp nhận và tìm tòi kiến thức, vận dụng vào thực tế và biến thành kỹ năng của riêng mình. Cùng với các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực khác, việc triển khai dạy học bằng kỹ thuật sơ đồ tư duy chính là một công cụ phù hợp mà các trường đang thực hiện để tiến hành giảm tải đạt chất lượng, kích thích hứng thú học tập làm phong phú thêm phương pháp dạy học tích cực đã và đang thực hiện. Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về bản đồ tư duy được phát minh bởi Tony Buzan. Tôi nhận thấy rằng bản đồ tư duy là công cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm hứng và niềm say mê học tập cho học sinh. Đặc biệt bản đồ tư duy rất phù hợp với các tiết ôn tập tổng kết chương, tổng kết bài..... có thể nói đây là công cụ vô giá không những giúp học sinh mà cả giáo viên trong việc thu thập phân loại thông tin. Bản đồ tư duy chính là bức tranh tổng thể về chủ đề đang hướng tới để mỗi cá nhân có thể hiểu được bức tranh đó, nắm bắt được diễn biến của quá trình tư duy theo nhóm đó đang diễn ra đến đâu, đang ở nhánh nào của sơ đồ tư duy và tổng quan toàn bộ kết quả của nhóm ra sao. Điều này giúp tiết kiệm thời gian làm việc trong học tập do các thành viên không mất thời gian giải thích ý tưởng của mình thuộc ý lớn nào. Sơ đồ tư duy tạo nên sự cân bằng giữa các cá nhân và cân bằng trong tập thể. Mọi thành viên đều đóng góp ý kiến và cùng nhau xây dựng. Mặt khác, dựa trên nguyên lý hoạt động của bộ não, sơ đồ tư duy có thể giúp chúng ta ghi nhớ lâu hơn, đọc nhanh hơn, hiệu quả hơn. Không những vậy chúng ta cũng hiểu được sơ đồ tư duy, thấy được tương thích giữa sơ đồ tư duy với cấu tạo, chức năng và hoạt động của bộ não. Từ đó thấy được vai trò quan trọng của nó trong học tập và đời sống. Đề tài đặt ra mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu đó là: Ứng dụng triệt để sơ đồ tư duy vào trong dạy học nói chung và giảng dạy môn công nghệ nói riêng để phát huy tối đa khả năng tư duy đặc biệt là tư duy hệ thống. Khi học sinh đã biết thiết kế sơ đồ tư duy và tự ghi chép phần kiến thức như trên, các em đã hiểu sâu kiến thức và biết chuyển kiến thức từ sách giáo khoa theo cách trình bày thông thường thành cách hiểu ghi nhớ riêng của mình. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Nội dung kiến thức môn công nghệ 11 là những kiến thức lí thuyết thường trừu tượng, mang nặng tính nguyên lý kỹ thuật. Do đó học sinh rất khó khăn trong quá trình tiếp nhận cũng như khắc sâu kiến thức vừa nghiên cứu, gây ra sự nhàm chán đối với môn học. Các em học sinh có thói quen thụ động quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, những gì giáo viên đã giảng. Mặt khác xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, sức thuyết phục của chương trình còn ở mức độ, tâm lí coi nhẹ môn học của học sinh.....và còn nhiều lí do khác nữa được đưa ra để biện minh cho một thực tế là chất lượng và hiệu quả của giờ học chưa cao. Song tôi thiết nghĩ mấu chốt của vấn đề là ở chỗ bản thân người giáo viên công nghệ cũng đang dạt theo sự ngại học của học sinh, chưa tích cực tìm giải pháp nâng cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức ấy phải được tổ chức thế nào để giúp học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng và hứng thú. Thể hiện ở việc đầu năm trong tiết học đầu tiên tôi đều tiến hành điều tra hứng thú học tập của học sinh với môn công nghệ ở các lớp tôi dạy. Cơ sở để thực hiện điều tra là các em đã được học môn công nghệ với những nội dung liên quan ở cấp học dưới (THCS), qua đó để nắm bắt tình hình chung về quan điểm thái độ học tập của học sinh đối với bộ môn và đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục của bộ môn. Nội dung phiếu điều tra được trình bày ở (Phụ lục 1). (Phiếu điều tra không yêu cầu ghi tên học sinh để đảm bảo tính khách quan). Kết quả điều tra như sau: Bảng 2.2.1. Thống kê về hứng thú học tập của HS với môn học Công nghệ. Mức độ hứng thú Năm học 2017 – 2018 Năm học 2018 – 2019 Tổng Lớp 11D4 Lớp 11D3 Lớp 11E2 Lớp 11E4 SL % SL % SL % SL % SL % Rất thích 8 18.2 7 16.7 4 9.1 8 19.5 27 15.8 Bình thường 14 31.8 16 38,1 17 38.6 18 43.9 65 38.0 Không thích 22 50.0 19 45.2 23 52.3 15 36.6 79 46.2 Tổng 44 100 42 100 44 100 41 100 171 100 Kết quả điều tra trên cho thấy: Chỉ 15,8% tổng số học sinh được điều tra là rất có hứng thú khi học môn công nghệ; Trong khi đó có tới 46,2% tổng số học sinh được điều tra không thích học môn Công nghệ. Mặt khác, với địa bàn tương đối khó khăn, nhận thức của người dân còn thấp, hiểu biết chưa cao, học sinh còn chưa ham muốn học tập bộ môn này. Hơn nữa chương trình môn công nghệ quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa rút gọn những gì cần truyền đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho học sinh. Qua quá trình điều tra thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu làm học sinh chưa hứng thú với môn Công nghệ. Nguyên nhân Năm học 2017 – 2018 Năm học 2018 – 2019 Tổng Lớp 11D4 Lớp 11D3 Lớp 11E2 Lớp 11E4 SL % SL % SL % SL % SL % Do tiết học buồn tẻ, không lôi cuốn 17 38.6 17 40,5 16 36.4 18 43.9 68 39.8 Do nội dung kiến thức SGK còn trừu tượng khó hiểu, nhiều lý thuyết 9 20.5 10 23.8 9 20.5 11 26.8 39 22.8 Do đó là môn học phụ 13 29.5 13 30.9 19 43.1 10 24.4 55 32.2 Ý kiến khác 05 11.4 02 4.8 0 0 02 4.9 9 5.2 Tổng 44 100 42 100 44 100 41 100 171 100 Kết quả điều tra trên cho thấy, học sinh chưa có hứng thú học tập với bộ môn do nhiều nguyên nhân. Song nguyên nhân chủ yếu nhất (chiếm tới 39.8% tổng số học sinh được điều tra) là do chất lượng giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, tiết học không có gì mới mẻ, đơn điệu, khô khan buồn tẻdo đó không đủ sức gây được sự chú ý, hấp dẫn từ phía người học, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong giờ học của môn học. Chính vì những nguyên nhân trên nên dẫn đến khả năng thực hiện và sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập môn học còn hạn chế thể hiện cụ thể ở bảng 2.2.3. Bảng 2.2.3. Khả năng sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập môn học công nghệ ở trường THPT Triệu Sơn 3. Mức độ sử dụng Năm học 2017 – 2018 Năm học 2018 – 2019 Tổng Lớp 11D4 Lớp 11D3 Lớp 11E5 Lớp 11E4 SL % SL % % SL SL % SL % Thường xuyên 1 2.3 0 0 0 0 1 2.4 2 1.7 Thỉnh thoảng 4 9,1 4 9.5 3 6.8 3 7.3 14 8.2 Chưa bao giờ 39 88.6 38 90.5 41 93.2 37 90.3 155 90.1 Tổng 44 100 42 100 44 100 41 100 171 100 Như vậy, đa số học sinh chưa có thói quen sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập môn học, chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức như thế nào trong việc thiết kế và sử dụng sơ đồ tư duy. Chính vì vậy, chất lượng học tập, sự sáng tạo, tư duy của học sinh còn yếu cho nên việc sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập của các em vẫn gặp khó khăn. Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên nói. Mặt khác học sinh chưa có thói quen chuẩn bị đồ dùng học tập như giấy A4, bút màu, bút chì, tẩy hoặc bảng phụ trong tiết học. Vậy làm thế nào để có thể tạo được sự hấp dẫn, cuốn hút đối với học sinh trong các tiết học, từng nội dung của bài học một cách có hệ thống, bài bản mà không bị đơn điệu, khô khan, nhàm chán; Làm thế nào để học sinh sử dụng được thành thạo và có kỹ năng tốt trong sử dụng sơ đồ tư duy vào học tập môn học. Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn kiến thức, phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp với từng bài, từng chủ đề, từng đối tượng học sinh, đặc biệt phải chú ý đến nhu cầu tư duy, tâm lý muốn khám phá cái mới, cái độc đáo ở học sinh THPT. Chính vì vậy trong hai năm học 2017 – 2018, năm học 2018 - 2019 sau khi nghiên cứu kỹ các nội dung tập huấn về việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh tôi đã sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy vào dạy học môn công nghệ 11 ở trường THPT. Nhận thấy bước đầu đã thu được những tín hiệu tích cực đáng khích lệ từ học sinh. Các em đã rất hào hứng chờ đợi các tiết học được sử dụng các kỹ thuật sơ đồ tư duy. Bởi ở đó, các em có cơ hội được thể hiện sự hiểu biết, được bộ lộ khả năng, thế mạnh của mình và đặc biệt các em được chủ động tích cực trong nắm bắt kiến thức và nội dung bài học. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Trong sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy nhằm tạo hứng thú học tập, giúp học sinh học tốt môn công nghệ 11 ở trường THPT qua các hoạt động trong bài học như sau: 2.3.1. Tổ chức dạy học bằng sơ đồ tư duy Dựa vào nguyên tắc dạy học và tác dụng của kỹ thuật sơ đồ tư duy chúng ta áp dụng dạy được ở nhiều dạng bài: Bài mới, ôn tập, hệ thống chương hoặc giai đoạn, làm bài tập công nghệ, đặc biệt là củng cố bài. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, dựa trên cơ sở nguyên lý của sơ đồ tư duy hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy: (Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học sinh mở rộng, phát triển thêm. [3] Thực hiện dạy học bằng cách lập sơ đồ tư duy được tóm tắt qua 4 bước như sau: - Bước 1: Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. - Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Khi củng cố kiến thức giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức bài học bằng sơ đồ tư duy. (Lưu ý: - Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở, GV yêu cầu các nhóm HS nên vẽ các kiểu SĐTD khác nhau, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình thức, cấu trúc (nếu cần)). - Ghi bảng: Giáo viên tóm tắt bài học bằng một sơ đồ kiến thức (Dàn bài) Ví dụ 1: Dạy bài 7: “Hình chiếu phối cảnh” Công nghệ 11 Đặc điểm của bài là học sinh nắm được khái niệm về hình chiếu phối cảnh và biết được cách vẽ phác hình chiếu phối cảnh đơn giản. Vì vậy khi dạy bài này chúng ta cần hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm thiết lập sơ đồ tư duy với “Chìa khóa” là “Hình chiếu phối cảnh” Từ đó xậy dựng kiến thức của từng nội dung lớn, nhỏ (cây → cành → nhánh) việc làm này giúp học sinh tư duy lựa chọn kiến thức để lập và phát triển thêm. Hoạt động 1: Lập sơ đồ tư duy - Giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh tiếp cận những nội d
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_ky_thuat_so_do_tu_duy_nham_tao_hung_thu_hoc_tap.docx