SKKN Sử dụng hình ảnh thực tế nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua bài cơ cấu phân phối khí – Công nghệ 11
Quan niệm giáo dục hiện nay với mục tiêu của giáo dục là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”, hướng tới công cuộc “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước” các trường THPT trong toàn quốc hiện nay đã và đang quan tâm tới việc nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy học nhằm định hướng cho học sinh THPT về lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Đặc biệt là các môn khoa học tự nhiên, trong đó có môn Công nghệ đã từng bước đưa các đồ dùng dạy học hiện đại vào giảng dạy. Phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh là trung tâm. Vì vậy việc thay đổi phương pháp giảng dạy và nghiên cứu phương pháp giảng dạy để tiếp cận mang tính phù hợp với đối tượng học sinh là một vấn đề quan trọng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng đã xác định rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tô cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học suốt đời”
Công nghệ là môn học mang tính thực tiễn. Dạy Công nghệ để học sinh lĩnh hội kiến thức khoa học, góp phần đẩy mạnh công cuộc “ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”, nâng cao kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Vì vậy người giáo viên ngay ban đầu phải hình thành phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn.
PHẦN 1: MỞ ĐẦU. 1.1. Lý do chọn đề tài: Quan niệm giáo dục hiện nay với mục tiêu của giáo dục là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”, hướng tới công cuộc “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước” các trường THPT trong toàn quốc hiện nay đã và đang quan tâm tới việc nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy học nhằm định hướng cho học sinh THPT về lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Đặc biệt là các môn khoa học tự nhiên, trong đó có môn Công nghệ đã từng bước đưa các đồ dùng dạy học hiện đại vào giảng dạy. Phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh là trung tâm. Vì vậy việc thay đổi phương pháp giảng dạy và nghiên cứu phương pháp giảng dạy để tiếp cận mang tính phù hợp với đối tượng học sinh là một vấn đề quan trọng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng đã xác định rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tô cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học suốt đời” Công nghệ là môn học mang tính thực tiễn. Dạy Công nghệ để học sinh lĩnh hội kiến thức khoa học, góp phần đẩy mạnh công cuộc “ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”, nâng cao kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Vì vậy người giáo viên ngay ban đầu phải hình thành phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn. Vấn đề dạy và học môn Công nghệ ở trường THPT hiện nay còn gặp một số khó khăn nhất định như: chưa hiểu đầy đủ và đúng các kiến thức lí thuyết dẫn đến khó khăn trong việc vận dụng kiến thức vào thực tế, theo tình trạng chung hiện nay, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy đối với môn Công nghệ ở các trường còn hạn chế ở nội dung Động cơ đốt trong thuộc chương trình Công nghệ 11.Tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Công nghệ THPT còn ít. Vì những lí do trên tôi chọn đề tài “Sử dụng hình ảnh thực tế nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua bài cơ cấu phân phối khí – Công nghệ 11”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài của tôi được đưa ra nhằm mục đích: - Giúp học sinh tiếp thu bài dễ dàng. - Nhận biết và giải thích các vấn đề thực tế. - Tạo sự hứng thú hơn khi học Công nghệ, từ nghe giảng đến tự tìm hiểu để tìm ra những cái mới và thông qua đó rèn luyện tác phong công nghiệp cho học sinh, giáo dục thế giới quan khoa học và niềm tin. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Bài cơ cấu phân phối khí – Công nghệ 11. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Thu thập những tài liên quan đến Cơ cấu phân phối khí dùng trên Động cơ đốt trong. Xem xét những điểm mới và tương đồng trong SGK để rút ra kết luận. - Sử dụng phương tiện trực quan để giải thích các vấn đề liên quan đến cơ cấu phân phối khí. Các phương tiện trực quan là máy chiếu, một số chi tiết của cơ cấu phân phối khí. - Áp dụng các tài liệu đã thu thập được, cùng với các phương tiện trực quan giúp cho việc soạn giảng được dễ dàng. PHẦN 2: NỘI DUNG. 2.1. Cơ sở lý luận. Trực quan là một phương pháp trong dạy học cho nhiều môn học. Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là con đường biện chứng của nhận thức". Như vậy nhận thức của con người gồm hai giai đoạn có quan hệ biện chứng với nhau là: trực quan sinh động và tư duy trừu tượng. “Trăm nghe không bằng một thấy” là câu nói khẳng định tầm quan trọng của trực quan, đặc biệt trong dạy học Công nghệ. Quan điểm dạy học hiện nay lấy học sinh làm trung tâm .Tư tưởng chủ đạo của thuyết dạy học lấy học sinh làm trung tâm là nhà trường chuẩn bị cho học sinh đủ năng lực thích ứng với xã hội. Người thầy đóng vai trò là người tổ chức điều khiển quá trình nhận thức của học sinh. Thông qua hoạt động nhận thức, học sinh phát huy nhân cách của mình một cách toàn diện. 2.2. Thực trạng: Các sản phẩm của lĩnh vực cơ khí luôn biến đổi và hoàn thiện từng ngày, nếu không có sự cập nhật kịp thời thì khó giải thích được những vấn đề thực tiễn. Đối với bộ môn Công nghệ phổ thông, là môn khoa học ứng dụng phản ánh những thành tựu khoa học tương ứng, nhưng nó chịu sự quy định của những điều kiện dạy học. Nội dung dạy học trong trường phổ thông phải cơ bản, thiết thực, hiện đại đồng thời phải phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của học sinh và đáp ứng yêu cầu tiến bộ khoa học - công nghệ. Trong nhiều năm giảng dạy ở trường THPT Quảng xương 2 tôi thấy học sinh chưa thực sự hứng thú với môn Công nghệ. Vì vậy việc sử dụng các hình ảnh và kiến thức thực tế sẽ rất cần thiết để phát huy tính tích cực và thu hút được học sinh khi học môn công nghệ. 2.3. Một số giải pháp: 2.3.1. Nội dung 1: Phân loại cơ cấu phân phối khí . a. Đặt vấn đề Động cơ hai kì ba cửa khí thì không có xupap. Vậy có loại động cơ hai kì nào có xupap hay không? b. Giải quyết vấn đề. ● Cho học sinh quan sát tranh động cơ hai kì 3 cửa khí và đặt câu hỏi: Động cơ hai kì ba cửa khí. 1.Bugi, 2.Pit tông, 3.Cửa thải, 4.Cửa nạp, 5.Thanh truyền, 6.Trục khuỷu. 7.Cacte, 8.Đường thông cacte với cửa quét, 9.Cửa quét, 10.Xilanh. - Các cửa khí ở động cơ trên được đặt ở đâu? - HS:Trên thành xilanh. - Chi tiết nào đóng mở các cửa khí này? -HS:Pit tông. -Vậy nếu đặt cửa thải trên nắp máy thì pit tông có đóng mở cửa thải được không? -HS:Không. -Vậy lúc đó để đóng mở cửa thải ta phải dùng chi tiết nào? -HS:Xupap thải. ● Giáo viên kết luận: một số động cơ điezen hai kì có cửa thải trên nắp xilanh. Do đó, cần phải kết hợp cả pit tông và xupap để đóng mở các cửa khí. Cơ cấu phân phối khí đó gọi là cơ cấu phân phối khí kết hợp xupap và van trượt. Động cơ hai kì quét thẳng qua xupap xả 1.Ống hút, 2.Bơm khí quét, 3.Pittông, 4.Xupap xả, 5.Vòi phun, 6.Ống thải 7.Không gian chứa khí quét, 8.Cửa quét. 2.3.2. Nội dung 2: Cấu tạo cơ cấu phân phối khí dùng xupap. a.Đặt vấn đề. -Hình vẽ SGK cho thấy : số lượng trục cam dẫn động cho xupap là 1 .Trục cam đặt gần trục khuỷu và được dẫn động trực tiếp thông qua cặp bánh răng phân phối. -Trang 112 SGK có ghi : nếu trục cam đặt trên nắp máy, thường sử dụng xích cam làm chi tiết dẫn động trung gian. -Trên thực tế , số lượng trục cam trong cơ cấu phân phối khí là bao nhiêu? Có những phương án nào để bố trí trục cam? b.Giải quyết vấn đề. ● Phát phiếu học tập cho học sinh. PHIẾU HỌC TẬP Họ và tên:................................................ Lớp:. Quan sát hình ảnh và trả lời các câu hỏi sau: -Số lượng trục cam trên hình là: Hình A: Hình B:.. -Trục cam được đặt gần trục khuỷu hay trên nắp xilanh? Hình A: Hình B:.. Hình A (1: Trục cam, 2: Xupap) Hình B (1: Trục cam, 2: Xupap) ● Giáo viên kết luận: -Đối với động cơ có 1 trục cam thì cam nạp và thải bố trí trên cùng một trục. Đối với động cơ có hai trục cam thì cam nạp và thải được bố trí trên hai trục riêng biệt. -Khi trục cam đặt xa trục khuỷu không sử dụng phương án truyền động thông qua cặp bánh răng phân phối thì phải truyền động thông qua xích hoặc đai răng. ● Cho học sinh quan sát hình ảnh các phương án dẫn động trục cam. Nội dung 3: Khe hở nhiệt. a.Đặt vấn đề. Khe hở nhiệt là gì? Vì sao khe hở nhiệt lại ảnh hưởng đến hoạt động cơ cấu phân phối khí? b.Giải quyết vấn đề. ● Giáo viên đặt câu hỏi: -Khi động cơ làm việc thì nhiệt độ trong buồng cháy cao hay thấp? -HS:Cao. -Khi nhiệt độ cao thì kích thước của xupap sẽ như thế nào? -HS:Tăng lên. ● Giáo viên kết luận; -Vì vậy đối với cơ cấu phân phối khí dùng xupap cần có khe hở nhiệt. Nó được xác định là khe hở giữa đuôi xupap và cò mổ khi xupap đóng và động cơ ở trạng thái nguội. ● Cho học sinh thảo luận nhóm các nội dung sau: -Khe hở nhiệt quá lớn hoặc quá nhỏ sẽ gây ra hiện tượng gì? ● Giáo viên kết luận: -Khe hở nhiệt được bố trí phụ thuộc vào nhiệt độ làm việc các chi tiết và chiều dài giãn nở. Nếu khe hở nhiệt quá nhỏ, xupáp có thể không được đóng kín hoàn toàn. Ngược lại nếu khe hở quá lớn, trong quá trình làm việc sẽ gây tiêng gõ và giảm tuổi thọ các chi tiết trong cơ cấu. -Nêu lên việc bảo vệ môi trường thông qua việc điều chỉnh khe hở nhiệt. 2.4. Hiệu quả: ●Đề tài này được áp dụng trong năm học 2015- 2016, bản thân tôi thấy có hiệu quả vì tính tính cực học tập của học sinh được tăng lên. Để đề tài này thực hiện được tốt, đòi hỏi người giáo viên phải tìm hiểu, thu thập các thông tin và các chi tiết trực quan phục vụ cho việc giảng dạy. Với bài học này khi áp dụng cho lớp tự nhiên hay lớp xã hội kết quả đều mang tính khả quan. Sự hứng thú học tập và tích cực tìm hiểu kiến thức của học sinh được tăng lên. ●Hiện nay đa phần các trường THPT đều có máy chiếu để phục vụ cho giảng dạy. Vì vậy , nếu vấn đề tìm các chi tiết thật của cơ cấu phân phối khí gặp khó khăn, thì áp dụng các hình ảnh trình chiếu các chi tiết đó thay thế vật thật vẫn thu được hiệu quả cao. PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận: Qua việc nghiên cứu lí luận, thực tiễn về vấn đề được nêu ra, qua việc phân tích thực trạng những nguyên nhân dẫn đến chất lượng học tập.Bản thân tôi qua những năm làm công tác giảng dạy đã tìm hiểu nguyên nhân và đã áp dụng một số biện pháp trong việc nghiên cứu bài giảng, kết hợp với công nghệ thông tin trong giảng dạy, các em đã có những hứng thú trong học tập.Dễ dàng hình dung những bài học trừu tượng để nắm vững kiến thức. Đối với một giáo viên dạy Công nghệ THPT cần phải có niềm say mê đối với bộ môn, từ đó mới có những hứng thú trong việc tìm hiểu những kiến thức mới và truyền đạt những kiến thức đó cùng niềm đam mê tìm hiểu cho học sinh.Học sinh nếu được hiểu một cách rõ ràng , cặn kẽ về kiến thức sẽ có thái độ học tập tích cực và thích nghiên cứu tìm hiểu những điều mới lạ xung quanh do môn Công nghệ mang lại.Để đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy, cần phải giáo dục cho học sinh những tư tưởng đúng đắn.Giáo viên phải hướng cho học sinh thấy được những lợi ích do môn Công nghệ mang lại, cách thức vận dụng lí thuyết vào thực tiễn sao cho hợp lí để môn Công nghệ trở nên gần gũi hơn. Xã hội luôn vận động và phát triển, kiến thức khoa học cũng theo đó bổ sung từng ngày.Vì vậy,đối với đề tài này còn phải được mở rộng để bổ sung thêm nhằm hoàn thiện hơn. Khi tìm hiểu về lĩnh vực động cơ đốt trong, có rất nhiều đối tượng cùng nghiên cứu như các nhà thiết kế chế tạo động cơ, kĩ sư, thợ máy, giáo viên dạy nghề, giáo viên THPT v.v..Cùng một lĩnh vực quan tâm nhưng những đối tượng khác nhau sẽ tìm hiểu với những cái nhìn khác nhau. Dưới góc độ nhìn nhận và tìm hiểu của một người giáo viên dạy Công nghệ THPT, đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong Ban Giám Hiệu và quý thầy cô giúp đỡ và góp ý để đề tài hoàn thiện hơn. 3.2. Kiến nghị: Cần bổ sung hình ảnh thực tế trong các nhà trường. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết SKKN Nguyễn Văn Bình TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phương pháp dạy học KTCN (Dương Phúc Tý – NXB KHKT – 2007). 2. Động cơ đốt trong (Hoàng Minh Tác – NXB Đại học sư phạm – 2002). 3. Động cơ đốt trong xưa và nay (Nguyễn Đức Phú – NXB KHKT – 1984). 4. Nguyên lí động cơ đốt trong (Nguyễn Tất Tiến – NXB Giáo dục- 2003). 5. Hoạt động giáo dục nghề phổ thông.
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_hinh_anh_thuc_te_nham_phat_huy_tinh_tich_cuc_cu.doc