SKKN Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ cho học sinh THPT

SKKN Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ cho học sinh THPT

Nghe, nói, đọc, viết là 4 kĩ năng ngôn ngữ mà mỗi người cần phải thành thạo để giao tiếp và nghiên cứu. Rèn luyện những kĩ năng ấy cũng là mục tiêu của bộ môn Ngữ Văn. PGS. TS Đỗ Ngọc Thống (Viện KHGD VN), tổng chủ biên chương trình môn Ngữ văn xoay quanh những điểm đổi mới của môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông đang biên soạn đã khẳng định: Đối với môn Ngữ văn, chương trình lần này sẽ có đổi mới cả về mục tiêu, quy trình xây dựng cũng như nội dung chương trình cho tới phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá. Về mục tiêu môn học, điểm khác biệt lớn nhất của chương trình lần này chính là coi trọng năng lực giao tiếp (với 4 kỹ năng chính là đọc, viết, nói và nghe). Thông qua việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp mà giáo dục tâm hồn, nhân cách và khả năng sáng tạo văn học của học sinh (HS), đồng thời góp phần phát triển các năng lực khác như năng lực thẩm mỹ, năng lực tự chủ, năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo mà chương trình tổng thể đã đề ra. Trong đó, năng lực giao tiếp ngôn ngữ là trục tích hợp để xây dựng xuyên suốt cả 3 cấp học.[4]

Làm Văn trong nhà trường trước kia chủ yếu là Nghị luận Văn học với các dạng bài phân tích, bình giảng, chứng minh, so sánh Từ năm học 2008-2009 khi phần Nghị luận xã hội được đưa vào đề thi đại học, việc rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận xã hội đã được chú trọng rèn luyện. Trong cấu trúc mới nhất của đề thi THPT quốc gia năm 2017 môn Ngữ Văn rút xuống còn 120 phút, phần nghị luận xã hội được điều chỉnh như sau:

- Từ yêu cầu viết một bài văn thành viết một đoạn văn khoảng 200 chữ

- Nội dung nghị luận về một vấn đề xã hội được đề cập ở phần Đọc hiểu.

- Phần NLXH còn lại là 2,0 điểm.

 

doc 21 trang thuychi01 16242
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ cho học sinh THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
M ỤC L ỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU.............................................................................................
1
I. Lí do chọn đề tài.
1
II. Mục đích nghiên cứu
1
III. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi đề tài.
1
IV. Phương pháp nghiên cứu.
2
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.........................................
3
I.Cơ sở lí luận ..
3
1.Khái niệm về đoạn văn
3
2. Cách thức triển khai ý trong đoạn văn.
3
II. Thực trạng của vấn đề..
5
1. Thực trạng vấn đề..
5
2. Kết quả của thực trạng
6
III. Giải quyết vấn đề
6
1. Dạy học sinh cách nhận thức đề và tìm ý..
6
2. Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn nghị luận xã hội.
8
3. Dạy học sinh cách viết từng phần trong đoạn văn.....
10
4. Hướng dẫn học sinh cách sử dụng dẫn chứng trong đoạn văn NLXH
 14
5. Hướng dẫn học sinh thực hành đề..
 14
6. Dạy học sinh một số lưu ý viết đoạn văn NLXH 200 chữ đạt điểm cao
 17
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm..
17
1. Về phía học sinh.
17
2. Về phía giáo viên
18
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
19
I. Kết luận..
19
II. Kiến nghị..
19
Tài liệu tham khảo......................................................................
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
	Nghe, nói, đọc, viết là 4 kĩ năng ngôn ngữ mà mỗi người cần phải thành thạo để giao tiếp và nghiên cứu. Rèn luyện những kĩ năng ấy cũng là mục tiêu của bộ môn Ngữ Văn. PGS. TS Đỗ Ngọc Thống (Viện KHGD VN), tổng chủ biên chương trình môn Ngữ văn xoay quanh những điểm đổi mới của môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông đang biên soạn đã khẳng định: Đối với môn Ngữ văn, chương trình lần này sẽ có đổi mới cả về mục tiêu, quy trình xây dựng cũng như nội dung chương trình cho tới phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá. Về mục tiêu môn học, điểm khác biệt lớn nhất của chương trình lần này chính là coi trọng năng lực giao tiếp (với 4 kỹ năng chính là đọc, viết, nói và nghe). Thông qua việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp mà giáo dục tâm hồn, nhân cách và khả năng sáng tạo văn học của học sinh (HS), đồng thời góp phần phát triển các năng lực khác như năng lực thẩm mỹ, năng lực tự chủ, năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo mà chương trình tổng thể đã đề ra. Trong đó, năng lực giao tiếp ngôn ngữ là trục tích hợp để xây dựng xuyên suốt cả 3 cấp học.[4]
Làm Văn trong nhà trường trước kia chủ yếu là Nghị luận Văn học với các dạng bài phân tích, bình giảng, chứng minh, so sánhTừ năm học 2008-2009 khi phần Nghị luận xã hội được đưa vào đề thi đại học, việc rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận xã hội đã được chú trọng rèn luyện. Trong cấu trúc mới nhất của đề thi THPT quốc gia năm 2017 môn Ngữ Văn rút xuống còn 120 phút, phần nghị luận xã hội được điều chỉnh như sau:
- Từ yêu cầu viết một bài văn thành viết một đoạn văn khoảng 200 chữ 
- Nội dung nghị luận về một vấn đề xã hội được đề cập ở phần Đọc hiểu.
- Phần NLXH còn lại là 2,0 điểm.
 Qua điều tra, tìm hiểu tôi thấy học sinh còn rất lúng túng khi viết đoạn văn nghị luận xã hội. Đa số các em chưa định hình được dung lượng 200 chữ là phải viết bao nhiêu? Nhiều hơn hoặc ít hơn 200 chữ có bị trừ điểm không? và trong khoảng thời gian ngắn, dung lượng ngắn, các em phải làm thế nào để được trọn vẹn 2 điểm?
Ở trên mạng cũng có rất nhiều bài hướng dẫn của các giáo viên cho học sinh viết đoạn NLXH 200 chữ. Tuy nhiên, khoảng cách giữa lí thuyết đến thực hành vẫn là vấn đề lớn đối với học sinh.
Từ quá trình nghiên cứu lí thuyết và đúc rút từ thực tế giảng dạy của bản thân, tôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp kinh nghiệm: Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn nghị luận 200 chữ trong đề thi THPT Quốc gia.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài này, người viết hướng tới mục đích:
- Hệ thống một cách khoa học những yêu cầu cần đạt đối với đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ.
- Chia sẻ với đồng nghiệp kinh nghiệm để ôn tập phần NLXH 200 chữ có hiệu quả cho học sinh THPT nói chung và đặc biệt là học sinh lớp 12 nói riêng.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI ĐỀ TÀI.
 - Đề tài tập trung nghiên cứu phần đoạn văn Nghị luận xã hội 200 chữ trong cấu trúc đề thi THPT Quốc gia năm học 2016-2016.
- Các kết quả khảo sát được tiến hành tại các trường THPT trên địa bàn huyện Triệu Sơn mà chủ yếu là tại trường THPT Triệu Sơn 2.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
	Khi thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: tìm kiếm, nghiên cứu các tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: khảo sát, thống kê, phân tích, so sánh số liệu.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm về đoạn văn:
- Về nội dung:
	Đoạn văn là một phần của văn bản, nó diễn đạt ý hoàn chỉnh ở một mức độ nào đó logic ngữ nghĩa. [1] Tuy nhiên, đoạn văn Nghị luận xã hội 200 chữ cần bám sát yêu cầu của đề và dựa trên nội dung thông điệp ở phần đọc hiểu.
- Về hình thức:
	Đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau: Một đoạn văn được bắt đầu từ chữ cái viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng.[1]
2. Cách thức triển khai ý trong đoạn văn
	Đoạn văn diễn dịch (Có câu chủ đề): Đoạn diễn dịch là đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể ý của câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, có thể kèm theo nhận xét, đánh giá và bộc lộ cảm nhận của người viết.
VD:
 	Một chiếc lá rụng có linh hồn riêng, một tâm tình riêng, một cảm giác riêng. Có chiếc tựa như mũi tên nhọn, từ cành cây rơi cắm phập xuống đất như cho xong chuyện, cho xong một đời lạnh lùng thản nhiên, không thương tiếc, không do dự vẩn vơ. Có chiếc lá như con chim bị lảo đảo mấy vòng trên không rồi cố gượng ngoi đầu lên, hay giữ thăng bằng cho tận tới cái giây nằm phơi trên mặt đất. Có chiếc lá nhẹ nhàng khoan khoái đùa bỡn, hay múa may với làn gió thoảng như thầm bảo rằng vẻ đẹp của vạn vật chỉ ở hiện tại: cả thời quá khứ dài dằng dặc của chiếc lá trên cành cây không bằng một vài giây bay lượn, nếu sự bay lượn ấy có vẻ đẹp nên thơ. Có chiếc lá như sợ hãi, ngần ngại rụt rè, rồi như gần tới mặt đất, còn cất mình muốn bay trở lại cành. Có chiếc lá đầy âu yếm rơi bám vào một bông hoa thơm, hay đến mơn trớn một ngọn cỏ xanh mềm mại. (Khái Hưng) [4]
	Đoạn văn qui nạp (Có câu chủ đề): Đoạn qui nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý chi tiết đến ý khái quát, từ ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm. Theo cách trình bày này, câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn. Ở vị trí này, câu chủ đề không làm nhiệm vụ định hướng nội dung triển khai cho toàn đoạn mà lại làm nhiệm vụ khép lại nội dung cho đoạn ấy. Các câu trên được trình bày bằng các thao tác lập luận, minh họa, cảm nhận và rút ra nhận xét đánh giá chung.
VD:
	Những đứa con từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, phần lớn thời gian là gần gũi và thường là chịu ảnh hưởng từ người mẹ hơn từ cha. Chúng được mẹ cho bú sữa, bồng ẵm, dỗ dành, tắm giặt, ru ngủ, cho ăn uống, chăm sóc rất nhiều khi ốm đauVới việc nhận thức thông qua quá trình bé tự quan sát, học hỏi tự nhiên hàng ngày và ảnh hưởng đặc biệt các đức của người mẹ, đã hình thành dần dần bản tính của đứa con theo kiểu “mưa dầm, thấm lâu”. Ngoài ra, những đứa trẻ thường là thích bắt chước người khác thông qua những hành động của người gần gũi nhất chủ yếu là người mẹ. Chính người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái chủ yếu trong gia đình. (Trần Thanh Thảo) [ 4]
	Đoạn tổng – phân – hợp (Có câu chủ đề ở đầu và cuối đoạn văn): Đoạn tổng – phân – hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với qui nạp. Câu mở đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển khai cụ thể ý khái quát. Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu triển khai ý được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét, đánh giá hoặc nêu suy nghĩđể từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp, khẳng định, năng cao vấn đề.
VD:
	Thế đấy, biển luôn luôn thay đổi màu tùy theo sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng xanh thẳm, như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữNhư một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lung, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng.
(Vũ Tú Nam) [4]
	Đoạn văn song hành (Không có câu chủ đề): Đây là đoạn văn có các câu triển khai nội dung song song nhau, không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn nêu một khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đọan văn.
VD:
	Trong tập “Nhật kí trong tù”(Hồ Chí Minh), có những bài phác họa sơ sài mà chân thực đậm đà, càng tìm hiểu càng thú vị như đang chiêm ngưỡng một bức tranh cổ điển. Có những bài cảnh lồng lộng sinh động như những tấm thảm thuê nền gấm chỉ vàng. Cũng có những bài làm cho người đọc nghĩ tới những bức tranh sơn mài thâm trầm, sâu sắc. (Lê Thị Tú An) [4]
	Đoạn văn móc xích: Đoạn văn có kết cấu móc xích là đoạn văn mà các ý gối đầu, đan xen nhau và thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ đã có ở câu trước vào câu sau. Đoạn móc xích có thể có hoặc không có câu chủ đề.
VD: Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ Nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc bài thơ bài thơ được viết ra lúc nào trong cuộc đời nhiều nổi chìm của Nguyễn Trãi. Cũng một bài thơ nếu viết năm 1420 thì có một ý nghĩa, nếu viết năm 1430 thì nghĩa khác hẳn. (Hoài Thanh) [ 4]
	Đối với đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ trong đề thi THPT Quốc gia học sinh nên chọn triển khai theo cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng-phân-hợp.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề 
	Rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội là một nội dung quan trọng trong chương trình Ngữ Văn từ cấp học cơ sở đến THPT. Trong chương trình Ngữ Văn 12 có hẳn bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống. Điều đó giúp giáo viên hệ thống kiến thức và đưa ra cách làm bài NLXH cho học sinh Việc hướng dẫn học sinh viết bài văn nghị luận xã hội được giáo viên thực hiện trong các giờ dạy học chính khóa và chuyên đề ôn tập trong chương trình học thêm.
	Tuy nhiên, sự điều chỉnh của bộ giáo dục trong năm học 2016-2017 về cấu trúc đề thi môn Văn nói chung và phần NLXH nói riêng cũng khiến học sinh ít nhiều lúng túng. Bởi lâu nay học sinh quen với cách làm bài văn nghị luận xã hôi khoảng 200-300 từ nghĩa là khoảng 600 chữ. Với dung lượng ấy, học sinh thỏa sức trình bày ý kiến của mình qua hệ thống lập luận và dẫn chứng phong phú. Đến giờ trong một đoạn văn khoảng 200 chữ nghĩa là chỉ khoảng 2/3 trang giấy thi học sinh phải trình bày một cách thuyết phục quan điểm của mình về một vấn đề xã hội tức là về bản chất nó cũng giống như một bài NLXH thu nhỏ. Vậy nên giáo viên phải dạy cho học sinh cách cô đọng ý trong những câu văn mạch lạc, rõ ràng và học sinh phải tập viết “co lại” trong phạm vi thời gian từ 20-25 phút.
	Qua khảo sát thực tế tôi thấy thực trạng dạy học phần rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXH 200 chữ có những đặc điểm sau:
1.1. Về phía học sinh
- Vì kĩ năng viết bài văn NLXH đã định hình khá ổn định trong tư duy của các em, học sinh quen viết dàn trải nên yêu cầu co ngắn lại khoảng 20 dòng là không dễ.
- Viết 20 dòng để bày tỏ ý kiến của mình không khó nhưng làm sao để tạo nên tính thuyết phục và đáp ứng yêu cầu mà đề bài hướng tới với học sinh không dễ.
- Cá biêt có học sinh còn chưa biết một đoạn văn là thế nào, vẫn xuống dòng, tách đoạn mà không biết đã làm sai yêu cầu.
1.2. Về phía giáo viên
	Trong SGK Ngữ Văn THPT hiện nay không có bài riêng hướng dẫn học sinh viết đoạn văn nghị luận về một vấn đề xã hội. Vì thế, giáo viên dạy Ngữ Văn ở các trường THPT chúng tôi đang dạy phần này theo cách sau:
- Tham khảo các tài liệu, các đáp án thi thử của các trường và trao đổi kinh nghiệm của đồng nghiệp để hình thành “bộ khung” thống nhất cho đoạn văn 200 chữ đối với 2 kiểu bài NLXH: NL về một tư tưởng đạo lí và NL về một hiện tượng đời sống.
- Khi Bộ GD&ĐT đưa ra đề minh họa đã bám sát đáp án để điều chỉnh nội dung và cách làm cho phù hợp.
- Tranh thủ thời gian trên lớp, trong các giờ chính khóa và giờ học thêm để hướng dẫn kĩ năng làm bài đồng thời xây dựng hệ thống đề để học sinh thực hành.
2. Kết quả của thực trạng.
	Từ thực tế ấy, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh ngay ở các lớp tôi dạy là 12A2, 12A6, 11B4 ngay đầu năm với thời gian làm bài là 25 phút đề bài : Anh/chị hãy viết một đoạn văn 200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về câu nói “Nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc Cực mà là ở nơi thiếu tình thương”
Kết quả như sau:
- Về hình thức: Đa số các em viết đúng yêu cầu về hình thức 1 đoạn văn và đảm bảo về dung lượng khoảng 200 chữ. Vẫn còn một số học sinh viết chưa đúng yêu cầu: tách đoạn, viết quá dài hay quá ngắn
- Về nội dung: Các em hiểu nội dung vấn đề nhưng lúng túng ở các khâu sau: đặt vấn đề và giải thích dài dòng; phần bình luận sơ sài, dẫn chứng nhiều bài không có
	 Bảng thống kê điểm kiểm tra:
Lớp
Điểm
2,0
1,5-1,75
1,0-1,25
Dưới 1,0
12A2 (48hs)
10
10
20
8
12A6 (41hs)
6
9
17
9
11B4 (41hs)
5
8
18
10
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 CHỮ
1. Dạy học sinh cách nhận thức đề và tìm ý
2.1. Cách nhận thức đề
* Yêu cầu chung của nhận thức đề là đọc kĩ đề bài và xác định:
- Nội dung cần nghị luận
- Kiểu bài nghị luận
- Thao tác LL
- Phạm vi dẫn chứng
	Nhận thức đề là khâu quan trọng hàng đầu khi làm văn nghị luận nói chung và NLXH nói riêng. Nhận thức đề giúp học sinh không viết lạc đề.
* Những chú ý khi nhận thức đề viết đoạn văn 200 chữ NLXH
- Về nội dung: Đề bài có thể trích dẫn hoặc không trích dẫn câu văn trong phần đọc hiểu. 
+ Thứ nhất: Phải xác định được đề bài yêu cầu viết về vấn đề gì? (nội dung của đoạn văn).Đây là yêu cầu quan trọng nhất, đòi hỏi người viết phải bày tỏ quan điểm cá nhân rõ ràng. Đối với dạng “đề nổi” , học sinh có thể dễ dàng nhận ra phạm vi nội dung và phương pháp lập luận. Đối với dạng đề chìm, học sinh phải đọc kĩ nội dung văn bản để xác định.
+ Thứ hai: Cần phải có dẫn chứng thuyết phục bằng các ví dụ cụ thể trong đời sống.
+ Thứ ba: Phải đánh giá và nêu thái độ của người viết trước vấn đề đang bàn luận. Cần nêu ra những bài học nhận thức sau khi bàn luận. 	
Ví dụ :
+ Viết 1 đoạn văn 200 chữ về sự hi sinh thầm lặng của mẹ trong cuộc sống ngày hôm nay ( đề nổi) .
Học sinh dễ dàng xác định phạm vi nội dung : Thế nào là sự hi sinh thầm lặng ? biểu hiện của sự hi sinh thầm lặng ? tác dụng ? phê phán những người con bất hiếu, bài học rút ra cho bản thân, 
+ Viết 1 đoạn văn 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh chị về ý nghĩa câu chuyện được trích dẫn ở phần đọc hiểu : NGƯỜI ĂN XIN
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi. Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tanóng hổi của ông: – Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả. Ông nhìn tôi chăm chăm đôi môi nở nụ cười: Cháu ơi,cảm ơn cháu!Như vậy là cháu đã cho lão rồi. Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông. (Theo Tuốc- ghê- nhép) [4]
Với đề bài này, học sinh cần hiểu ý nghĩa câu chuyện, xác định vấn đề nghị luận và thao tác lập luận chủ yếu: HS tự do bày tỏ cảm nhận của bản thân: Có thể HS trình bày về giá trị của tình yêu thương, sự đồng cảm trong cuộc sống. Có thể HS trình bày bài học về một thái độ, cách ứng xử, ý thức cho và nhận của con người trong cuộc sống. Có thể HS trình bày lời chia sẻ với những số phận bất hạnh
- Về hình thức: 
+ Thứ nhất : Đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn (không được ngắt xuống dòng), dung lượng an toàn khoảng 2/3 tờ giấy thi (khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), có thể nhiều hơn 1 vài dòng cũng không bị trừ điểm.
+ Thứ hai: Đoạn văn phải đảm bảo bố cục ba phần: Đặt vấn đề - Giải quyết vấn đề - Kết thúc vấn đề.
+ Thứ ba: Đoạn văn sử dụng các thao tác lập luận: Giải thích – Phân tích – Chứng minh – Bình luận – Bác bỏ - Bình luận mở rộng.
+ Diễn đạt phải trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp
1. 2. Tìm ý cho đoạn văn
	Thực tế khi viết bài thi học sinh thường bỏ qua việc tìm ý và lập dàn ý. Nhưng trong khi hướng dẫn học sinh giáo viên phải tập cho học sinh kĩ năng này. Bởi kĩ năng này khi học sinh đã thành thạo sẽ giúp học sinh dù không đặt bút lập dàn ý nhưng trong đầu đã “lập trình” sẵn. Nó sẽ giúp học sinh tư duy mạch lạc. 
	Những điểm cần chú ý khi lập dàn ý:
- Xác định sẽ viết những nội dung cụ thể gì (ý chính)? (Căn cứ vào cách viết đoạn văn NLXH về tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống để tìm ý).
- Ghi ra giấy nháp những ý chính của đoạn văn (theo hệ thống các thao tác lập luận).
2. Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn nghị luận xã hội
2.1. Cách viết đoạn văn Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
* Đặc điểm
- Nội dung
+ Vấn đề nhận thức: lí tưởng, mục đích sống, nghề nghiệp, ước mơ
+ Vấn đề về đạo đức, tâm hồn, tính cách: lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng; tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn; thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi
+Vấn đề về các quan hệ gia đình: tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em
+ Vấn đề về các quan hệ xã hội: tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn
+Vấn đề về cách ứng xử, đối nhân xử thế của con người trong cuộc sống.
	- Hình thức
            + Dạng ngắn: Một câu ca dao, tục ngữ, danh ngôn, châm ngôn, câu thơ
            + Dạng dài: Một bài thơ/truyện ngắn mang ý nghĩa triết lí
*Cách làm bài
	- Mở đoạn: Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận
	- Thân đoạn
Bước 1: Giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận 
Bước 2:  Bình luận, chứng minh
Bước 3: Bàn bạc mở rộng, phê phán.	
Bước 4: Rút bài học nhận thức và hành động
	- Kết đoạn: Khẳng định chung về tư tưởng, đạo lí đã bàn luận ở thân bài.
* Học sinh có thể tham khảo mô hình cấu trúc một đoạn văn NLXH 200 chữ về một tư tưởng đạo lí của trang nguvan.tuhoctv.com sau: 
2.2. Cách viết đoạn văn nghị luận về một hiện tượng đời sống
* Yêu cầu cần đạt.
	Yêu cầu của kiểu bài này là học sinh cần làm rõ hiện tượng đời sống ( qua việc miêu tả, phân tích nguyên nhân, các khía cạnh của hiện tượng) từ đó thể hiện thái độ đánh giá của bản thân cũng như đề xuất ý kiến, giải pháp trước hiện tượng đời sống.
 Ngoài việc trang bị cho mình những kỹ năng làm bài, học sinh cần tích lũy những vốn hiểu biết thực tế về đời sống xã hội.
*Các bước làm bài.
- Mở đoạn: giới thiệu hiện tượng
- Thân đoạn: 
Bước 1: Miêu tả hiện tượng được đề cập đến trong bài.
+ Giải thích ( nếu trong đề bài có khái niệm, thuật ngữ hoặc các ẩn dụ, hoán dụ, so sánh)cần làm rõ để đưa ra vấn đề bàn luận.
+ Chỉ ra thực trạng ( biểu hiện của thực trạng)
Bước 2: Phân tích tác hại, các mặt đúng – sai, lợi – hại của vấn đề.
Bước 3: Chỉ ra nguyên nhân.
Bước 4: Bày tỏ thái độ, ý kiến đánh giá của người viết về hiện tượng., Giải pháp khắc phục hiện tượng tiêu cực.
- Kết đoạn: Khẳng định ý nghĩa thực tiễn của vấn đề
Giáo viên có thể cho học sinh tham khảo sở đồ cấu trúc đoạn văn nghị luận về một hiện tượng đời sống tiêu cực của trang nguvan.tuhoctv.com [ 4 ]
3. Dạy học sinh cách viết từng phần trong đoạn văn
3.1. Đối với kiểu bài NL về tư tưởng đạo lí
* Cách viết phần mở đoạn
- Vì đề bài yêu cầu là: “ Anh/chị hãy nghị luận về ý kiến được đưa ở phần đọc hiểu.” nên phần mở đoạn phải đạt được các yêu cầu sau:
+ Dẫn dắt giới thiệu ý kiến cần nghị luận.
+ Phải gắn liền với phần đọc hiểu
- Có thể mở đoạn theo một số cách sau:
+ Cách 1: ( Đơn giản nhất) Văn bản phần đọc hiểu đã đem đến cho người đọc những thông điệp có ý nghĩa. Trong đó, sâu sắc nhất là : “”
+ Cách 2: Khái quát chung về vấn đề cần nghị luận, dẫn dắt đến câ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ki_nang_viet_doan_van_nghi_luan_xa_hoi_200_ch.doc
  • docBÌA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM 2017 VẬT LÍ.doc