SKKN Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong môn sinh học lớp 7 ở trường THCS thị trấn Cành Nàng
Trong mấy thập kỷ gần đây, cùng với sự tiến bộ của các ngành khoa học cơ bản, sự bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão lí luận dạy học có những bước tiến đáng kể. Sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi sự đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp kĩ năng, thói quen ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập được nhân lên gấp bội, vì vậy người ta nhấn mạnh năng lực tự học.
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn sinh học và dạy đội tuyển học sinh giỏi ở các khối lớp của trường THCS Lương Ngoại và hiện nay chuyển về trường chất lượng cao THCS thị trấn Cành Nàng của huyện Bá Thước, bản thân tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm. Đó là, nếu người thầy truyền đạt kiến thức theo phương pháp thụ động, thầy giảng trò ghi sang phương pháp học tập chủ động, tích cực. Dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển năng lực cho mỗi cá nhân học sinh, lí thuyết đi đôi với thực hành, đó chính là yếu tố quyết định đến sự thành công trong quá trình dạy và học, là cơ sở phát huy năng lực tự học cho các em sau này.
Trong bộ môn sinh học được học ở bậc THCS, đặc biệt là môn sinh học 7, cung cấp cho các em hiểu biết cơ bản về sinh giới, để bảo vệ phát triển tài nguyên sinh vật, bảo vệ môi trường, giữ gìn sức khỏe và làm giàu cho tổ quốc. Mặt khác môn sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm, kiến thức gắn liền với đời sống thưc tiễn. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu là rất cần thiết, xuất phát từ lí do trên, tôi xin nêu một số kinh nghiệm: “ Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong môn sinh học lớp 7 ở trường THCS thị trấn Cành Nàng”.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Trong mấy thập kỷ gần đây, cùng với sự tiến bộ của các ngành khoa học cơ bản, sự bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão lí luận dạy học có những bước tiến đáng kể. Sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi sự đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp kĩ năng, thói quen ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập được nhân lên gấp bội, vì vậy người ta nhấn mạnh năng lực tự học. Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn sinh học và dạy đội tuyển học sinh giỏi ở các khối lớp của trường THCS Lương Ngoại và hiện nay chuyển về trường chất lượng cao THCS thị trấn Cành Nàng của huyện Bá Thước, bản thân tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm. Đó là, nếu người thầy truyền đạt kiến thức theo phương pháp thụ động, thầy giảng trò ghi sang phương pháp học tập chủ động, tích cực. Dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và tư duy phân tích, tổng hợp, phát triển năng lực cho mỗi cá nhân học sinh, lí thuyết đi đôi với thực hành, đó chính là yếu tố quyết định đến sự thành công trong quá trình dạy và học, là cơ sở phát huy năng lực tự học cho các em sau này. Trong bộ môn sinh học được học ở bậc THCS, đặc biệt là môn sinh học 7, cung cấp cho các em hiểu biết cơ bản về sinh giới, để bảo vệ phát triển tài nguyên sinh vật, bảo vệ môi trường, giữ gìn sức khỏe và làm giàu cho tổ quốc. Mặt khác môn sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm, kiến thức gắn liền với đời sống thưc tiễn. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu là rất cần thiết, xuất phát từ lí do trên, tôi xin nêu một số kinh nghiệm: “ Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong môn sinh học lớp 7 ở trường THCS thị trấn Cành Nàng”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nâng cao hiệu quả tự học của học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và phát hiện nguồn học sinh giỏi cho các lớp trên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong môn sinh học lớp 7 ở trường THCS thị trấn Cành Nàng. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp khảo sát thực tế. + Phương pháp thống kê, đối chứng + Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp. 2. NÔI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM . Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọc- chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. Tự học là yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo. Nó là con đường tối ưu để sớm đưa sự nghiệp giáo dục và nền kinh tế nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tế giảng dạy cho thấy dù giáo viên có dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp vụ vững vàng đến mấy, nếu học sinh không chịu khó học tập, đào sâu suy nghĩ, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập thì chất lượng học tập cũng không thể cao. Trong điều kiện học tập ở nhà trường như nhau nhưng kết quả học tập của học sinh khác nhau rõ rệt, điều đó phần lớn là do khả năng tự học của mỗi học sinh. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Môn Sinh học nói chung, môn sinh học 7 nói riêng ở trường THCS thị trấn Cành nàng được quan tâm, chú trọng như các môn học khác. Tuy nhiên chất lượng bộ môn chưa cao, việc học tập của học sinh chủ yếu tập trung nhiều ở tiếp thu trong bài giảng của thầy, chưa phát huy được vai trò của tự học của học sinh. Vì vậy tôi đã tiến hành khảo sát học sinh khối 7 ở trường THCS thị trấn Cành Nàng để kiểm tra thực trạng việc học tập của học sinh trong năm học 2014-2015 qua 2 bảng sau: Bảng 1: Kết quả khảo sát về tính tích cực của học sinh Nội dung khảo sát (Năm học 2014-2015) Số HS Mức độ tích cực học tập của học sinh Tích cực Bình thường Chưa tích cực SL % SL % SL % Chuẩn bị bài và làm bài tập ở nhà. 68 10 14.7 42 61,73 16 23,5 Vận dụng làm bài tập nâng cao, mở rộng. 68 8 11.8 30 44.1 30 44.1 Tinh thần học tập ở lớp. 68 16 23,5 42 61.7 10 14.7 Bảng 2: Khảo sát kết quả học tập môn sinh khối 7 Nội dung khảo sát (Năm học 2014-2015) Số HS Xếp loại Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Kết quả học tập 68 4 5,8 20 29,4 30 44,1 10 14,7 Phân tích kết quả khảo sát cho thấy: - Tỉ lệ học sinh tích cực học tập ở nhà thấp: chuẩn bị bài và làm bài tập ở nhà còn sơ sài. Khả năng vận dụng để giải quyết các tình huống thực tiễn chậm. Tinh thần học tập trên lớp chưa phát huy được tính tích cực. - Chất lượng các bài kiểm tra thấp: tỉ lệ học sinh xếp loại giỏi ít, tỉ lệ trung bình, yếu cao. 2.2.1. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. 2.2.1.1. Nguyên nhân khách quan. - Mặt trái của sự phát triển xã hội hiện đại, sự bùng nổ công nghệ thông tin: Các mạng xã hội, các trò chơi điện tử... đã lôi cuốn nhiều học sinh tham gia, lâu dần dẫn đến nghiện, đã ảnh hưởng lớn đến quá trình học tập. - Tâm lí lứa tuổi học sinh THCS. - Cấu trúc chương trình SGK nhiều chổ, nhiều bài chưa phù hợp. - Điều kiện trang thiết bị giảng dạy của nhà trường còn thiếu, đặc biệt là hệ thống tranh, đồ dùng thực hành, thí nghiệm. - Môn Sinh học chưa được nhiều học sinh quan tâm, đầu tư học tập. 2.2.1.2 Nguyên nhân chủ quan. - Bản thân học sinh chưa yêu thích môn học, chưa chăm học, chưa hăng say trong học tập. - Học sinh chưa được sự hướng dẫn, rèn luyện các kĩ năng tự học. - Quá trình giảng dạy, giáo viên chưa phát huy được năng lực tự học, chủ động, sáng tạo, tích cực của học sinh. - Sự buông lỏng trong quản lí, giáo dục từ phía gia đình. 2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện. 2.3.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh biết tìm kiếm tài liệu và phương pháp học tập bộ môn. 2.3.1.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh sưu tầm và tìm kiếm tài liệu: Vì thời lượng chương trình trên lớp có hạn nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai thác thêm các nguồn tài liệu kiến thức qua nhiều kênh thông tin khác nhau như là: - Tài liệu tham khảo qua sách, báo: Ngoài sách giáo khoa học sinh cần mua thêm một số tài liệu tham khảo có bán trong các hiệu sách của các nhà xuất bản. - Tài liệu tham khảo qua mạng Internet: Giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm các hình ảnh, đoạn phim các bài giảng trực tuyến hay tư liệu liên quan đến bài học qua mạng internet. Nguồn tài liệu này rất sinh động, trực quan, dễ hiểu và đây là nguồn tài nguyên kiến thức khổng lồ được nhiều người cùng chia sẽ. Tuy nhiên, với học sinh nếu không có sự hướng dẫn thì cũng gặp nhiều khó khăn, hoặc không kiểm soát thì học sinh lợi dụng để vào các trang mạng xã hội có nội dung không lành mạnh. Vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên và kiểm soát chặt chẻ từ gia đình. Ví dụ: Khi học về lớp Lưỡng Cư: (bài Ếch đồng), để chuẩn bị bài và mở rộng kiến thức bài học tốt, học sinh vào phần mềm tìm kiếm Google/ chọn từ khóa cần tìm máy tính sẽ cho rất nhiều thông tin: về đời sống, vòng đời, sinh sản của ếch đồng - Hằng năm giáo viên cần xây dựng, biên soạn và bổ sung các chuyên đề tài liệu, ngân hàng câu hỏi, bài tập để làm tư liệu cho học sinh học tập, thuận lợi hơn giáo viên có thể gửi qua địa chỉ trên mạng để học sinh có thể truy cập tham khảo cho việc học tập ở nhà. 2.3.1.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh một số phương pháp học tập bộ môn và nghiên cứu tài liệu. - Một số phương pháp học tập bộ môn: + Phương pháp quan sát, tìm tòi bộ phận: Bộ môn sinh học, SGK được thiết kế với nhiều thông tin kiến thức dưới dạng kênh hình, vì vậy cần hướng dẫn cho học sinh biết cách khai thác từ kênh hình để phát hiện tìm ra kiến thức cần đạt. Ví dụ: Thực hiện lệnh tam giác mục I- Bộ Xương ở bài 39 SGK – Cấu tạo trong của thằn lằn: Quan sát bộ xương của thằn lằn kết với hình 39.1 hãy nêu sự khác biệt nổi bật của thằn lằn so với ếch đồng? Hướng dẫn: Học sinh thường lúng túng khi quan sát và tìm ra sự khác biệt. Vì vậy cần hướng dẫn học sinh quan sát các nội dung chủ yếu, cơ bản để tìm ra những điểm khác biệt nổi bật: Cột sống, xương sườn, xương chi, các đốt sống cổ, các đốt sống đuôi, xương đai chi trước và đai chi sau + Phương pháp thực hành, thí nghiệm. Môn Sinh 7 có rất nhiều bài thực hành trong mỗi lớp động vật, hoặc ngành động vật. Vì vậy học sinh cần phải biết những thao tác, những kĩ năng cơ bản cho một bài học thực hành như: sự chuẩn bị mẫu vật, kĩ năng quan sát, kĩ năng mổ để quan sát cấu tạo trong, biết viết báo cáo thu hoạch sau bài thực hành. Từ đó mà khi học đến bài thực hành, học sinh không còn lúng túng trong các hoạt động học tập. Thông qua các bài thực hành để rèn luyện sự cẩn thận, khéo léo, từ đó để hình thành kiến thức. Ví dụ: Bài 36 SGK sinh hoc 7: Thực hành quan sát cấu tạo trong của ếch đồng trên mẫu mổ( sẽ được hướng dẫn cụ thể ở từng bài thực hành). + Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Thông thường GV nêu vấn đề và học sinh giải quyết vấn đề, nhưng GV cũng có thể hướng dẫn HS phát hiện vấn đề hay đặt câu hỏi để GV và học sinh cùng giải quyết. Vì vậy mà trong các hoạt động trên lớp, học sinh được phát huy năng lực chủ động tích cực và sáng tạo. + Phương pháp thảo luận nhóm: GV cần hướng dẫn học sinh biết những kĩ năng thảo luận nhóm cho học sinh, kĩ năng thuyết trình một vấn sau khi thảo luận. - Kĩ năng nghiên cứu tài liệu: Khi đọc tài liệu HS cần trả lời các câu hỏi: thông tin kiến thức đó nói về vấn đề gì? Thông tin đó dùng để trả lời cho câu hỏi nào đang cần giải đáp. Tại sao lại có được kết luận đó ? So sánh với đối tượng vừa học có gì giống và khác? Hướng tiến hóa và hoàn thiện về cấu tạo như thế nào? Có thể tóm lượng thông tin đó một cách ngắn gọn theo ý hay sơ đồ được không? Từ đó học sinh khi đọc và nghiên cứu tài liệu học sinh dễ dàng chắt lọc kiến thức cần tìm. - Ví dụ: Khi đọc nghiên cứu tài liệu bài 39 SGK mục 2. Tuần hoàn- hô hấp thì HS cần đọc, nghiên cứu quan sát theo trình tự sau: + Một là: Đọc thật kĩ, chậm toàn bộ thông tin SGK mục 2 và quan sát hình 39.3 + Hai là: Thông tin đang nghiên cứu nói về vấn đề: cấu tạo, hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp của thằn lằn + Ba là: So sánh, phân tích: Hệ tuần hoàn của thằn lằn có gì giống và khác so với ếch đồng? +Bốn là: Tổng hợp, khái quát hóa và liên hệ: Tim mấy ngăn? máy vòng tuần hoàn? cơ quan hô hấp là gì? Cấu tạo hệ tuần hoàn và hô hấp có ý nghĩa gì với đời sống hoạt động của thằn lằn? 2.3.1.3. Biện pháp 3. Hướng dẫn học sinh cách trình bày, diễn đạt các dạng câu hỏi bài tập. Hầu hết học sinh khi diễn đạt nội dung kiến thức qua các câu hỏi và bài tập đều lúng túng và trình bày không theo logic của mạch kiến thức, không biết sắp xếp các ý cần diễn đạt. Gây khó đọc, khó soát ý cho giáo viên khi chấm bài. Vì vậy mà kết quả không đạt được điểm tối đa trong các bài kiểm tra. Vì vậy trong giảng dạy giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách thức diễn đạt, trình bày khi làm câu hỏi hay bài tập một cách chi tiết. Để làm tốt phần này thì giáo viên ngoài hướng dẫn học sinh thì cần sửa lỗi chi tiết cho học sinh thông qua chấm bài kiểm tra. Dưới đây là một số ví dụ và hướng dẫn cách trình bày cho từng loại câu hỏi. Dạng 1: câu hỏi tái hiện kiến thức: Như nêu đời sống, tập tính, đặc điểm chung vai trò thì cần diễn đạt theo các ý gạch đầu dòng để trách thiếu nội dung và dễ cho người chấm bài. Ví dụ: Nêu đời sống, tập tính của ếch đồng? Trả lời: - Môi trường sống: thường sống nơi ẩm ướt, gần bờ nước(bờ ao, bờ đầm nước) - Thời gian kiếm ăn: thường vào ban đêm - Thức ăn: Sâu bọ, cua, cá con, giun , ốc - Tập tính: Ẩn mình trong hang (trú đông) - Là động vật biến nhiệt Dạng 2: Dạng câu hỏi so sánh: Cần diễn đạt phần giống nhau theo các ý gạch đầu dòng, phân khác nhau được chia cột và so sánh theo các ý tương đồng Ví dụ: So sánh tuần hoàn của thằn lằn và ếch đồng? Giống nhau: - Tim đều có 2 tâm nhĩ và tâm thất - Máu đi nuôi cơ thể là máu pha - Có 2 vòng tuần hoàn: Vòng tuần hoàn phổi và vòng tuần hoàn đi nuôi cơ thể Khác nhau: Tuần hoàn ếch đống Tuần hoàn thằn lằn - Tim 3 ngăn: 2 tâm nhĩ và 1 tâm thất. - Máu pha đi nuôi cơ thể. - Tim 3 ngăn, song tâm thất có 1 vách hụt ngăn tạm thời tâm thất thành 2 nửa. - Máu đi nuôi cơ thể ít bị pha hơn. Dạng 3: Dạng bài tập lựa chọn câu trả lời thích hợp: loại bài tập này học sinh chỉ cần lựa chọn câu trả lời có sẵn. Để không mất nhiều thời gian và dễ dàng đối khớp với kết quả của đáp án trên lớp. Nếu các câu trả lời lựa chọn quá dài học sinh có thể quy ước bằng kí hiệu thứ tự các câu trả lời rồi lựa chọn các quy ước đó điền vào chổ trống. Dạng 4: Dạng câu hỏi trình bày cấu tạo ngoài thích nghi với đời sống. Dạng câu hỏi này học sinh cần lựa chọn những đặc điểm cấu tạo để giúp cho sự thích nghi với đời sống của mỗi loài Ví dụ:Trình bày đặc điểm cấu tạo của dơi thích nghi với đời sống bay. Trả lời: - Chi trước biến đổi thành cánh da. - Cánh da là một màng da rộng phủ lông mao thưa, mềm mại nối liền cánh. tay, ống tay, các xương bàn và các xương ngón với mình. Tăng diện tích quạt gió khi bay. - Đuôi ngắn, thân ngắn, chi sau nhỏ yếu để giảm bớt trọng lượng khi bay. Từ những đặc điểm trên giúp dơi thích nghi với đời sống bay, dơi có cách bay thoăn thoắt, thay hướng đổi chiều một cách linh hoạt. Dạng 5: Dạng câu hỏi so sánh, rút ra chiều hướng tiến hóa. Dạng câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải chỉ ra được sự khác nhau, đồng thời rút ra chiều hướng tiến hóa. Ví dụ: Tim của động vật từ lớp cá đến lớp thú thể hiện sự phức hoàn thiện dần như thế nào? Trả lời: Lớp Cá(Tim 2 ngăn ) Lớp lương cư (Tim 3 ngăn) Lớp bò sát(Tim 3 ngăn , tâm thất có thêm vách hụt) Lớp chim và thú (Tim 4 ngăn hoàn chỉnh). Vì vậy theo chiều mũi tên các lớp động vật có sự hoàn thiện và phức tạp dần về cấu tạo của tim để chuyên hóa về chức năng. 2.3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch học tập. Hiện nay các chương trình môn học rất nặng, số lượng môn học nhiều, có nhiều hoạt động ở trường, ở lớp và những việc sinh hoạt cá nhân ở gia đình. Vì vậy nếu không xây dựng kế hoạch học tập và thời gian biểu học tập hợp lí thì không có đủ thời gian học tập, hoặc thời gian học không hiệu quả. Học sinh cần tận dụng triệt để thời gian để học, phải chọn thời gian học hợp lí và hiệu quả nhất, cần có thời gian giải trí và giúp đỡ gia đình. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh tự xây dựng kế hoạch học tập và thời gian biểu cho riêng mình, đồng thời có sự kiểm soát từ gia đình và kiểm tra từ giáo viên theo mẫu sau: - Kế hoạch học tập: TT Nội dung Mục tiêu Nhiệm vụ Thời gian 1 Chương 6: Ngành ĐVCXS - Hoàn thành nhiệm vụ thầy, cô giao. - Đạt điểm: - Học thuộc bài. - Làm bài tập đầy đủ. 2 3 4 - Thời gian biểu: Thứ Sáng Từ h đếnh Chiều Từ h đếnh Tối Từ h đếnh Ghi chú (Giải trí) 2 3 4 5 6 7 CN 2.2.3. Giải pháp 3. Kết hợp với gia đình phụ huynh học sinh, giáo viên chủ nhiệm, để kiểm soát học tập ở nhà của học sinh. Công tác phối kết hợp với gia đình học sinh, kết hợp với GVCN là hết sức quan trọng. Vì ngoài thời lượng học ở trường thì phần nhiều thời gian các em tự học ở nhà. Sự quản lí về thời gian biểu học tập, tinh thần tự giác học tập, ý chí, nghị lực và sức khỏe là những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng học tập. Trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần phải hiểu học sinh, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng, năng lực sở trường của từng em. Từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Đặc biệt chú ý các em học sinh học lực yếu, học sinh có hoàn cảnh khó khăn và học sinh có tiềm năng tố chất phát triển. Công việc này thường được tiến hành ngay từ đầu năm học và tiến hành thường xuyên, tôi thường tiến hành theo trình tự sau: Một là: Phân loại học sinh: Ngay từ những tuần đầu tiên giáo viên cần có những bài kiểm tra khảo sát, phiếu thăm dò, tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, kết quả học tập năm học trước để biết về năng lực, sở trường, điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh từ đó phân loại học sinh. Hai là: xây dựng kế hoạch dạy học, kế hoạch phối kết hợp với gia đình, và GVCN Ba là: Trong quá trình giảng dạy luôn theo dõi sát sao, cập nhật những tiến bộ của học sinh, để động viên, khích lệ hoặc uốn nắn kịp thời. 2.3.4. Giải pháp 4: Dùng nghiệp vụ sư phạm để lôi cuốn, thu hút học sinh yêu thích môn học. Đề học sinh yêu thích và chăm chỉ, say mê học tập thì người thầy có vai trò quan trọng. Người thầy đóng vai trò “truyền lửa” cho học sinh. Tôi thường tiến hành như sau: Một là: Gương mẫu trước học sinh, xây dựng hình ảnh đẹp về người thầy trong suy nghĩ và dưới ánh mắt học trò. Hai là: Nghiêm khắc, công bằng với tất cả học sinh. Ba là: Quan tâm đến học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh khó khăn, để động viên và chia sẻ. Bốn là: Giao lưu cùng học sinh: GV có thể tranh thủ xen kẻ ở các hoạt động tổ chức trò chơi, văn nghệ, kể chuyện về những tấm gương vượt khó, hay những thành tích xuất sắc của các thế hệ học trò cũ để học sinh học tập và noi theo. Năm là: Đa dạng các kiểu bài lên lớp, sinh động trong các bài học, luôn nhiệt huyết và yêu nghề, để học sinh luôn thấy thú vị trong từng bài học mà không bị nhàm chán. Từ đó mà đa số học sinh yêu thích môn học, tích cực trong học tập ở nhà củng như ở lớp với bộ môn sinh học. Nhiệm vụ học tập mà thầy giao cho luôn hoàn thành tốt và kịp thời. 2.3.5. Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh cách học bài cũ hiệu quả và rèn kĩ năng tư duy, khái quát vấn đề. Hầu hết học sinh đều chưa có phương pháp học thích hợp với bộ môn, các em còn lúng túng trong quá trình tự học ở nhà. Vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên. Trước hết học sinh cần học bài cũ những nội dung kiến thức nào? Học ở đâu? Học như thế nào để nhanh thuộc bài, nhanh hiểu bài và hoàn thành được các nhiệm vụ yêu cầu của giáo viên. Tôi thường hướng dẫn học sinh học bài theo logic sau: Một là: Tái hiện lại kiến thức tiếp thu được ở lớp mà thầy, cô giảng (ngay trong ngày để không bị quên), các phần tiếp theo có thể học ở thời điểm khác. Hai là: Đọc, hiểu lại toàn bộ nội dung bài học. Những chỗ có vấn đề còn vướng mắc chưa hiểu hết trên lớp. Ba là: Tự tìm kiếm câu trả lời bằng cách suy luận, tư duy lôgic hoặc tham khảo các nguồn tài liệu như sách tham khảo hoặc tra cứu qua mạng internet, trao đổi cùng bạn bè, nếu chưa tìm ra thì trao đổi với thầy, cô giáo để cùng tìm kiếm và giải đáp. Bốn là: Hoàn thành các nội dung câu hỏi và bài tập cuối bài trong sách giáo khoa. Làm thêm bài tập nâng cao trong các sách tham khảo, có cùng nội dung bài học. Đặc biệt giải thích các hiện tượng sinh học trong thực tiễn, thường được đưa ra trong mục em có biết Năm là: Khái quát lại những trọng tâm, những nội dung cơ bản của bài học để học thuộc theo sơ đồ tư duy. Ví dụ: Sau khi học xong bài 37 SGK sinh 7 về nhà học sinh cần học bài như thế nào? Một là:Tái hiện lại kiến thức bài học: Gồm các nội dung kiến thức SGK và kiến thức giáo viên mở rộng nâng cao và liên hệ thực tế. + Đa dạng về thành phần loài: Phân biệt được 3 bộ lưỡng cư bằng những đặc điểm đặc trưng nhất. +Đa dạng về môi trường sống: Xác định được các đặc điểm sinh học của lưỡng cư tương ứng với các đại diện(nơi sống, hoạt động, tập tính tự vệ) + Nêu được đặc điểm chung của lưỡng cư + Nêu được vai trò của lưỡng
Tài liệu đính kèm:
- skkn_ren_luyen_ki_nang_tu_hoc_cho_hoc_sinh_trong_mon_sinh_ho.doc