SKKN Kinh nghiệm sử dụng mẫu vật nhằm nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Sinh học lớp 7 ở trường THCS Chu Văn An

SKKN Kinh nghiệm sử dụng mẫu vật nhằm nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Sinh học lớp 7 ở trường THCS Chu Văn An

Trong dạy học hiện nay vấn đề tự nghiên cứu, lấy học sinh làm trung tâm của nhận thức được đặt lên hàng đầu, do đó phải có yếu tố gây hứng thú học tập, phương tiện kích thích tư duy tích cực ở học sinh, hướng học sinh vào hoạt động tư duy cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao trong học tập.

 Hiện nay việc kết hợp giữa tư duy và các mô hình, tranh vẽ là yếu tố không thiếu được trong dạy học Sinh học nói chung và Sinh học 7 nói riêng. Đó là mẫu, tranh vẽ hoặc các biểu bảng mà giáo viên và học sinh chuẩn bị trước vừa giúp các em có sự say mê với môn học.

Dạy tốt- Học tốt được coi là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, trong giảng dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác tìm tòi của học sinh. Muốn vậy trong mỗi bài giảng cần phải cải tiến được nội dung, phương pháp giảng dạy, cũng như sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý để khai thác sâu kiến thức, rèn trí thông minh, óc suy nghĩ sáng tạo cho học sinh giúp các em nắm kiến thức nhanh và chính xác.

 Để đạt được như vậy thì mỗi giáo viên phải biết vận dụng phương pháp giảng dạy, sử dụng thiết bị dạy học cho phù hợp với từng tiết học của môn học là việc hết sức quan trọng. Trong đó việc sử dụng thiết bị dạy học vào giảng dạy bộ môn Sinh học cho phù hợp với đặc trưng bộ môn giúp học sinh nắm bắt được kiến thức nhanh hơn, nâng cao chất lượng dạy – học là vấn đề hết sức quan trọng hiện nay.

 Sinh học 7 là bộ môn nghiên cứu về động vật nên đồ dùng học tập có vai trò rất quan trọng, nó vừa là nguồn cung cấp tri thức vừa là phương tiện giúp học sinh thực hiện các hoạt động tìm tòi tri thức mới nên phải tận dụng tối đa và tạo mọi điều kiện để học sinh được hoạt động với đồ dùng dạy học, với thí nghiệm, thực hành. Chuyển dần cách sử dụng đồ dùng dạy học theo hướng giúp học sinh tự lực phát triển trí tuệ và chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.

Bên cạnh đó xu hướng chung của việc cải cách giáo dục hiện nay ở trong nước và trên thế giới là học sinh phải tự tìm ra kiến thức thông qua thiết bị, đồ dùng dạy học, qua các bài thí nghiệm, thực hành giáo viên chỉ là người hướng dẫn, uốn nắn các em tìm ra kiến thức. Do vậy việc sử dụng đồ dùng dạy học sao cho thích hợp với mỗi tiết học là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên.

 Việc sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học trong giảng dạy bộ môn Sinh học 7 THCS sẽ giúp cho học sinh được tự mình quan sát, thực hành, thí nghiệm. Tự mình phân tích đối tượng, thu thập thông tin theo yêu cầu của từng bài và vận dụng các thao tác tư duy để so sánh, phân tích, nhận xét, khái quát hoá, trừu tượng hóa sự vật, hiện tượng tìm ra các đặc điểm chung, đặc điểm riêng, đặc điểm bản chất của đối tượng,. Do đó đã kích thích được tính tích cực, chủ động trong tư duy của học sinh khi lĩnh hội tri thức mới.

 Chính vì những lý do đã phân tích ở trên, để góp phần giúp học sinh học môn Sinh học 7 tốt hơn tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Kinh nghiệm sử dụng mẫu vật nhằm nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Sinh học lớp 7 ở trường THCS Chu Văn An” để nghiên cứu và áp dụng.

 

doc 22 trang thuychi01 11332
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm sử dụng mẫu vật nhằm nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Sinh học lớp 7 ở trường THCS Chu Văn An", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC
NỘI DUNG
TRANG
1
MỞ ĐẦU
2
1.1
Lý do chọn đề tài
2
1.2
Mục đích nghiên cứu
3
1.3
Đối tượng nghiên cứu
3
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
1.5
Những điểm mới của SKKN
3
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
2.1
Cơ sở lý luận SKKN
4
2.2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
4
2.2.1
Thực trạng về thiết bị đồ dùng dạy học
4
2.2.2
Thực trạng về giáo viên
4
2.2.3
Thực trạng về học sinh
5
2.3
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.3.1
Một số yêu cầu khi dạy bài thực hành
5
2.3.2
Một số dạng bài thực hành trong chương trình Sinh học 7
6
2.3.3
Thi làm và sử dụng đồ dùng dạy học
9
2.3.4
Bài giảng thực nghiệm
10
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
17
3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
3.1
Kết luận
19
3.2
Kiến nghị
19
1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong dạy học hiện nay vấn đề tự nghiên cứu, lấy học sinh làm trung tâm của nhận thức được đặt lên hàng đầu, do đó phải có yếu tố gây hứng thú học tập, phương tiện kích thích tư duy tích cực ở học sinh, hướng học sinh vào hoạt động tư duy cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao trong học tập.
 	Hiện nay việc kết hợp giữa tư duy và các mô hình, tranh vẽ là yếu tố không thiếu được trong dạy học Sinh học nói chung và Sinh học 7 nói riêng. Đó là mẫu, tranh vẽ hoặc các biểu bảng mà giáo viên và học sinh chuẩn bị trước vừa giúp các em có sự say mê với môn học. 
Dạy tốt- Học tốt được coi là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, trong giảng dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác tìm tòi của học sinh. Muốn vậy trong mỗi bài giảng cần phải cải tiến được nội dung, phương pháp giảng dạy, cũng như sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý để khai thác sâu kiến thức, rèn trí thông minh, óc suy nghĩ sáng tạo cho học sinh giúp các em nắm kiến thức nhanh và chính xác. 
 	Để đạt được như vậy thì mỗi giáo viên phải biết vận dụng phương pháp giảng dạy, sử dụng thiết bị dạy học cho phù hợp với từng tiết học của môn học là việc hết sức quan trọng. Trong đó việc sử dụng thiết bị dạy học vào giảng dạy bộ môn Sinh học cho phù hợp với đặc trưng bộ môn giúp học sinh nắm bắt được kiến thức nhanh hơn, nâng cao chất lượng dạy – học là vấn đề hết sức quan trọng hiện nay.
 	Sinh học 7 là bộ môn nghiên cứu về động vật nên đồ dùng học tập có vai trò rất quan trọng, nó vừa là nguồn cung cấp tri thức vừa là phương tiện giúp học sinh thực hiện các hoạt động tìm tòi tri thức mới nên phải tận dụng tối đa và tạo mọi điều kiện để học sinh được hoạt động với đồ dùng dạy học, với thí nghiệm, thực hành. Chuyển dần cách sử dụng đồ dùng dạy học theo hướng giúp học sinh tự lực phát triển trí tuệ và chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. 
Bên cạnh đó xu hướng chung của việc cải cách giáo dục hiện nay ở trong nước và trên thế giới là học sinh phải tự tìm ra kiến thức thông qua thiết bị, đồ dùng dạy học, qua các bài thí nghiệm, thực hành giáo viên chỉ là người hướng dẫn, uốn nắn các em tìm ra kiến thức. Do vậy việc sử dụng đồ dùng dạy học sao cho thích hợp với mỗi tiết học là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên.
 	Việc sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học trong giảng dạy bộ môn Sinh học 7 THCS sẽ giúp cho học sinh được tự mình quan sát, thực hành, thí nghiệm. Tự mình phân tích đối tượng, thu thập thông tin theo yêu cầu của từng bài và vận dụng các thao tác tư duy để so sánh, phân tích, nhận xét, khái quát hoá, trừu tượng hóa sự vật, hiện tượng tìm ra các đặc điểm chung, đặc điểm riêng, đặc điểm bản chất của đối tượng,... Do đó đã kích thích được tính tích cực, chủ động trong tư duy của học sinh khi lĩnh hội tri thức mới.
 	Chính vì những lý do đã phân tích ở trên, để góp phần giúp học sinh học môn Sinh học 7 tốt hơn tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Kinh nghiệm sử dụng mẫu vật nhằm nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Sinh học lớp 7 ở trường THCS Chu Văn An” để nghiên cứu và áp dụng.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Sinh học là bộ môn khoa học thực nghiệm tạo ra sự kích thích tính tò mò, kích thích hứng thú học tập và sự tìm hiểu của học sinh. đặc biệt ở bộ môn sinh học còn giúp các em mô tả đực hình thái, giải thích được cơ chế sinh lý, mô tả được hình thái, cấu tạo của mọi cơ thể sống từ đơn giản đến phức tạp thông qua các đại diện của mỗi lớp, bộ, nhóm, ngành trong mối qua hệ với môi trường sống. vì thế đây là một trong những thuận lợi đáng kể trong việc thực hiện chuyên đề này. 
 	Một trong những thuận lợi khi thực hiện đề tài này là các tiết dạy môn sinh học đều có đồ dùng dạy học: mô hình, tranh ảnh hoặc vật mẫu trong thực tế. Học sinh rất hăng hái, say mê và thích thú khi học bộ môn
Với phương pháp dạy học đổi mới đòi hỏi học sinh phải làm việc nhiều đặc biệt với những bài có đồ dùng dạy học: mẫu vật, mô hình hoặc tranh ảnh đòi hỏi học sinh phải tự nghiên cứu thảo luận nhóm để rút ra kiến rồi trình bày, nhóm khác nhận xét bổ sung. Nếu giáo viên thường xuyên sử dụng thì tạo cho các em một thói quen học tập, làm việc thì sẽ dễ dàng hơn trong tiếp thu và lĩnh hội kiến thức.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
 	- Học sinh và giáo viên dạy khối 7 trường THCS Chu Văn An 
- Các thiết bị được cấp, các thiết bị giáo viên tự làm và một số dụng cụ thực hành do học sinh chuẩn bị.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
a) Tham khao tài liệu
- Sách tham khảo: 
+ Động vật không xương sống, 
+ Động vật có xương sống.
- Sách giáo khoa sinh học 7
- Sách giáo viên sinh học 7
b) Điều tra, đàm thoại qua đó biết chính xác kỹ năng thực hành, hứng thú học tập của học sinh để có phương pháp giảng dạy các bài thực hành phù hợp với đối tượng học sinh của nhà trường.
c) Dự giờ đồng nghiệp.
d) Kiểm tra, đối chiếu
- Kiểm tra:
+ Giáo viên áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên lớp.
+ Cho học sinh làm bài kiểm tra.
- Quan sát:
	+ Cách tiến hành của học sinh
	+ Quan sát khả năng vận dụng kiến thức đã học ở bài thực hành vào việc tiếp thu kiến thức.
- Phân tích, tổng hợp: Sau khi đọc tài liệu và phân tích đối tượng học sinh đã tìm hiểu để vận dụng các phương pháp phù hợp, có hiệu quả. Tổng hợp kết quả thu thập được trong thực tế, qua đó thấy được hiệu quả của việc áp dụng SKKN.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
	Sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng mẫu vật nhằm nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Sinh học 7 ở trường THCS Chu Văn An” lần đầu được áp dụng.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Sinh học là bộ môn có nhiều ứng dụng trong thực tế, gần gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh. Từ đó tạo ra sự kích thích, tính tò mò thích tìm hiểu của học sinh. đặc biệt ở môn học này giúp các em mô tả được đặc điểm hình thái, cấu tạo cơ thể sinh vật, lợi ích và tác hại qua các đại diện của mỗi nhóm sinh vật trong mối quan hệ với môi trường sống. 
Trong môn Sinh học 7 kiến thức rất đa dạng, phong phú, nếu học sinh không thực hành sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp thu tri thức, tính sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là trong giảng dạy theo phương pháp mới, học sinh giữ vai trò chủ động trong tiếp thu tri thức, còn giáo viên giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý giúp học sinh tìm tri thức. Việc thực hành vừa phù hợp với phương pháp mới, vừa phù hợp với đặc thù bộ môn, giúp học sinh:
 + Có được kỹ năng, kỹ xảo: quan sát, mổ, nhận xét, vẽ hình. Khi mổ nhiều động vật học sinh có được thao tác mổ nhanh, đẹp, chính xác, sử dụng đồ mổ một cách thành thạo, qua mẫu mổ học sinh quan sát được các cơ quan, hệ cơ quan, thông qua sự khác biệt về cấu tạo, học sinh thấy được sự tiến hóa, nguồn gốc của động vật giúp các em có kỹ năng phân tích tổng hợp
 + Khắc sâu kiến thức đã học: khi tự tay mình tiến hành thực hành thì bản thân các em sẽ dễ hiểu và nhớ kiến thức lâu hơn.
 + Có được hứng thú học tập động vật học, thích tìm hiểu. Trong quá trình thực hành các em thấy được những điều mới lạ về giới động vật, làm “trỗi dậy” tính tò mò, tìm hiểu, khám phá về động vật để chủ động tiếp thu tri thức và trở thành nhà nghiên cứu nên có được sự hứng thú học tập.
 + Có năng lực tư duy, trí thông minh, sáng tạo: khi làm thực hành học sinh tự mình quan sát, ghi chép, phán đoán kết quả và tự mình rút ra kết luận buộc các em phải tư duy, suy nghĩ, từ đó phát triển thông minh, óc sáng tạo.
Chính vì vậy, giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực hành để các em tự mình khám phá, tìm hiểu về giới động vật nhằm phát triển kỹ năng, kỹ xảo và tạo ra những con người năng động, sáng tạo.
2. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
2.2.1. Thực trạng về thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ giảng dạy môn Sinh học của nhà trường.
- Trang thiết bị phục vụ giảng dạy thực hành môn Sinh học cơ bản đủ để cho học sinh tiến hành thực hành. Tuy nhiên một số tranh ảnh, mô hình, đồ thí nghiệm hiện nay đã cũ, xuống cấp chưa được cấp mới bổ sung.
- Số lớp học đông, nhà trường chỉ có 1 phòng thực hành do đó nhiều tiết thực hành chồng chéo không tiến hành được.
- Ban giám hiệu phân công đúng chuyên môn, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
2.2.2. Thực trạng về giáo viên:
* Thuận lợi: 
- Nắm vững phương pháp giảng dạy loại bài thực hành.
- Có kỹ năng, kỹ xảo mổ động vật.
* Khó khăn: 
- Nhà trường chưa có cán bộ phụ tá thí nghiệm nên việc chuẩn bị cho một bài thực hành, một thí nghiệm... rất vất vả và khó khăn.
- Do nội dung chương trình SGK mới biên soạn theo hướng ưu tiên thực hành, giảm lý thuyết hàn lâm dẫn đến một số giáo viên chưa bắt nhịp kịp thời nên việc vận dụng giảng dạy, hướng dẫn các em thao tác, kỹ năng thực hành còn lúng túng, chưa thường xuyên, chưa có hiệu quả. 
2.2.3. Thực trạng về học sinh: 
- Đa số học sinh rất thích tiến hành thực hành, khi tự tay mình tiến hành mổ động vật các em có được kỹ năng: mổ chính xác, thực hiện thao tác nhanh, trình bày mẫu mổ đẹp, nêu được cấu tạo cơ thể động vật vững chắc.
- Tuy nhiên kỹ năng thực hành của một số học sinh còn hạn chế nên không biết cách trình bày mẫu mổ, thực hiện thao tác mổ còn lúng túng dẫn đến: mổ chưa đạt, thao tác chậm, xác định các hệ cơ quan trên mẫu chưa chính xác, vẽ hình và ghi chú thích hình vẽ chưa rõ ràng 
- Trình độ của học sinh không đồng đều tính tự giác, khả năng tư duy của các em còn hạn chế. Do đó các em ngại trau dồi kiến thức, học đối phó, miễn cưỡng, tư tưởng ỉ nại, dựa vào các tài liệu có sẵn, các sách tham khảoĐiều này đã gây khó khăn cho giáo viên trong việc cung cấp kiến thức, giao việc chuẩn bị đồ dùng, rèn kỹ năng thực hành trong các tiết học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng giải quyết vấn đề:
	2.3.1. Một số yêu cầu khi dạy bài thực hành.
2.3.1.1. Mẫu vật và phương tiện khi dạy các bài thực hành:
- Giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, và đầy đủ các loại mẫu vật và các điều kiện cần thiết khác để đảm bảo giờ dạy thành công.
- Trong khi tiến hành dạy học giáo viên phải: Nêu mục tiêu mẫu vật và phương tiện, tên của từng loại mẫu vật phải đảm bảo mỗi học sinh nhận thức rõ mục tiêu của từng loại mẫu vật, phương tiện để làm gì?
- Hướng dẫn học sinh cách tiến hành tìm hiểu mẫu vật dụng cụ, phải đảm bảo mỗi học sinh nhận thức rõ mục đích của nó trong làm thí nghiệm như thế nào? Bằng cách nào?
- Trong quá trình thực hành học sinh cần chú ý đến những đặc điểm của mẫu vật và dụng cụ, thiết bị.
- Để hoàn thành tốt mục tiêu bài học cũng như giúp giáo viên áp dụng thành công phương pháp dạy học tích cực, và nhẹ nhàng trong từng tiết dạy nhưng học sinh vẫn hăng say tích cực học tập lĩnh hội tốt kiến thức ngay tại lớp. Với suy nghĩ đó tôi đã đưa ra một số giải pháp sau:
2.3.1.2. Phải đảm bảo nguyên tắc trực quan. 
 Sử dụng sự quan sát và làm thí nghiệm phải được xem là phương pháp đặc thù, chúng góp phần đáp ứng về mặt nhận thức ở lứa tuổi học sinh lớp 7 là lứa tuổi vốn sống ít, sự hiểu biết ít, các biểu tượng tích luỹ còn hạn chế, các em còn nặng về tư duy thực nghiệm, tư duy hình tượng cụ thể. Việc xây dựng các khái niệm đòi hỏi phải lấy “Phương tiện trực quan” làm điểm tựa cho quá trình nhận thức. 
Hơn nữa các phương tiện trực quan còn phát huy được ở các em tính tích cực, tính tự lực, chủ động sáng tạo trong việc dành lấy tri thức dưới sự tổ chức và chỉ đạo của thầy, do đó kiến thức sẽ sâu sắc và chắc hơn. Chúng gây hứng thú nhận thức cho học sinh mà hứng thú nhận thức là yếu tố tâm lí ban đầu có tác dụng đối với quá trình nhận thức.
2.3.1.3. Lập kế hoạch giảng dạy:
Đối với giáo viên trực tiếp đứng lớp dạy các bài thực hành cần phải chuyên tâm vào tiết dạy, nghiên cứu kỹ SGK, SGV, tài liệu tham khảo liên quan, làm thử các thí nghiệm trực quan trước khi lên lớp. Đồng thời phải nắm bắt được từng đối tượng học sinh trong lớp giảng dạy thuộc bộ môn của mình bằng cách kiểm tra kiến thức ít nhất 3 lần bằng hình thức trắc nghiệm hoặc kiểm tra viết tại lớp sau đó thống kê kết quả kiểm tra và phân loại học sinh. Qua kết quả phân tích đánh giá phân loại học sinh, giáo viên lên kế hoạch giảng dạy cho cả năm học, cụ thể đến từng tuần học, thông qua kế hoạch giảng dạy giáo viên thiết kế bài dạy đối với từng tiết học cụ thể có tính sáng tạo phù hợp với đối tượng học sinh, cũng như việc chuẩn bị phương pháp dạy học phù hợp với mục tiêu đề ra.
2.3.1.4. Rà soát các bài thực hành trong chương trình:
Trong quá trình nghiên cứu nội dung chương trình SGK, SGV để định hướng thiết kế giáo án dạy các bài thực hành thì ở mỗi tiết dạy giáo viên cần phải luôn luôn có suy nghĩ làm thế nào để giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất đặc biệt trong mỗi tiết dạy học sinh phải sôi nổi học tập hoàn thành được nhiệm vụ do giáo viên đề ra. Để có được điều đó người giáo viên luôn luôn phải tìm tòi suy nghĩ để tìm ra con đường dạy học ngắn nhất.
	2.3.2 Một số dạng bài thực hành trong chương trình sinh học 7.
2.3.2.1. Đối với loại bài thực hành quan sát: 
Loại bài thực hành này dễ tiến hành nên GV thường yêu cầu học sinh tiến hành quan sát mẫu vật để nhận biết về đặc điểm hình thái, tập tính của động vật, môi trường sống của sinh vật ....
Đối với loại bài này, để tổ chức thành công giờ dạy thì giáo viên phải biết kích thích, phát huy được tư duy, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập, sưu tầm mẫu vật. Bằng cách giáo viên phân công nhóm học sinh về nhà sưu tầm trước mẫu vật để chuẩn bị cho tiết thực hành. Điều lưu ý ở đây là giáo viên phải biết cách phân công, hướng dẫn, kích thích các nhóm để làm sao các em không những sưu tầm đầy đủ mà còn đa dạng các loại mẫu vật, đảm bảo yêu cầu quan sát được và không làm ảnh hưởng đến môi trường chung, không mang tính chất hủy hoại sinh vật
Làm được như thế thì khi đến bài dạy, học sinh có đầy đủ mẫu vật để quan sát trực tiếp, từ đó rút ra được kiến thức và sẽ ghi nhớ được lâu hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài 29- Tiết 29 – Sinh học 7: Thực hành xem băng hình về tập tính của sâu bọ
- Giáo viên chuẩn bị sẵn băng hình về tập tính của lớp Sâu bọ 
- Giáo viên phân công các nhóm học sinh về nhà sưu tầm các tranh ảnh, tư liệu về tập tính như: Môi trường sống, cách dinh dưỡng, cách làm tổ, tự vệ tấn công, sinh sảncủa một số sâu bọ thường gặp như: Dế mèn, Ong, Bướm, Kiến, 
Châu chấu , Bọ xít, Bọ ngựa, chuồn chuồn
- Đến khi thực hành, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động theo nhóm để phân tích, sắp xếp các tranh theo chủ đề, so sánh những điều rút ra từ tư liệu sau đó các nhóm trao đổi tranh ảnh, tư liệu của nhóm mình với nhóm khác và tiếp tục thảo luận. Qua đó các em sẽ nắm vững được các tập tính của Sâu bọ.
Tôi xin giới thiệu một số tranh ảnh mà các em đã thu thập, sưu tầm được.
- Tranh mô tả về tập tính bắt mồi và dinh dưỡng của một số sâu bọ:
Kiến bắt mồi
Chuồn chuồn bắt mồi
- Tranh mô tả về tập tính làm tổ của một số sâu bọ:
Tổ Ong Mật
Tổ Kiến Đen
Tranh mô tả về tập tính tự vệ, tấn công của một số sâu bọ:
Bọ ngựa tự vệ
Sâu Rọm dựng lông tự vệ
	Đối với bài khó sưu tầm, thu thập được mẫu vật thật như dạng bài: Thực hành quan sát tập tính hoạt động của động vật hoặc thực hành quan sát mối quan hệ dinh dưỡng của sinh vật ngoài việc giáo viên chuẩn bị một số tài liệu như: Tranh ảnh, băng hình, videothì để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong việc thu thập, sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên phải phân công cho từng học sinh hoặc nhóm học sinh tự thu thập tài liệu để bổ sung cho tiết học: Tranh ảnh, mô hình, đoạn băng hình, videoliên quan đến bài học.
 Đến tiết thực hành, giáo viên tổ chức cho các em xem các đoạn băng hình hoặc video kết hợp với tài liệu của các em thu thập được để trao đổi, thảo luận kết quả quan sát, tư liệu thu thập, trả lời các câu hỏi hoặc làm bài tập của giáo viên đưa ra...Từ đó các em tự rút ra kiên thức bài học dưới sự định hướng, hướng dẫn của giáo viên.
2.3.2.2. Đối với loại bài thí nghiệm thực hành. 
Đối với dạng bài này, trong quá trình giảng dạy giáo viên cần tiến hành đúng theo trình tự các bước của một bài thực hành: 
- Nêu mục tiêu, yêu cầu của thí nghiệm, hoặc tiết học thực hành.
- Phân chia nhóm học sinh, phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi nhóm.
- Nêu từng nội dung thực hành và hướng dẫn tỉ mỉ về phương tiện thiết bị, ý nghĩa của các dụng cụ, cách bảo quản và các điều kiện để thí nghiệm thành công. 
- Hướng dẫn cả lớp tiến hành theo nhóm nhỏ.
- Sau mỗi nội dung thực hành, giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày các bước tiến hành và nêu kết quả thí nghiệm 
- Tổ chức cho các nhóm thảo luận giải thích kết quả thí nghiệm, rút ra kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học.
Ở đây, học sinh đóng vai trò của người nghiên cứu thực sự, chủ động tìm hiểu, phát hiện các hiện tượng, sự thay đổi các hiện tượng trong quá trình thí nghiệm. Tự thiết lập các mối quan hệ nhân quả, giải thích các kết quả thí nghiệm để tìm ra kết luận. 
	Ví dụ: Tiết 38 – Sinh học 7: Thực hành: Quan sát cấu tạo trong của ếch đồng trên mẫu mổ
- Bước 1: Kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh.
- Bước 2: Xác định yêu cầu của tiết thực hành.
	+Xác định hệ tiêu hóa.
	+ Xác định hệ hô hấp.
	+ Xác định hệ tuần hoàn.
	+ Xác định hệ bài tiết.
	+ Xác định hệ thần kinh.
	+ Xác định hệ sinh dục.
=> Đặc điểm của mỗi hệ cơ quan và vẽ hình quan sát được.
- Bước 3: Phân nhóm.
	Mỗi nhóm làm nội dung thực hành theo yêu cầu trên. Mỗi thành viên trong nhóm đảm nhiệm một yêu cầu thực hành, sau đó các nhóm lần lượt quay vòng nối tiếp nhau để hoàn thành nội dung thực hành.
- Bước 4: Giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ thuật mổ ếch, quan sát các hệ cơ quan bên trong.
- Bước 5: Mỗi nhóm viết một bài thu hoạch về các yêu cầu được giao.
- Bước 6: Các nhóm nộp bài thu hoạch, có chấm điểm.
Giáo viên đánh giá và rút kinh nghiệm cho tiết thực hành trên lớp.
	Như vậy với tiết thực hành nêu trên, việc sử dụng kết hợp hai hình thức tổ chức thực hành đồng loạt và hình thức tổ chức thực hành riêng lẻ trong nội dung bài thực hành. Chúng tôi thấy đạt được những kết quả như sau:
	- Hình thức này giúp học sinh khá – giỏi phát huy được năng lực, tính sáng tạo của mình; giữa học sinh yếu – kém và học sinh khá- giỏi có sự giúp đỡ lẫn nhau để lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành.
	- Hình thành cho học sinh kinh nghiệm áp dụng vào thực tế cuộc sống. Rèn luyện tính cẩn thận, làm việc chính xác, trung thực, khoa học, phát triển tư duy lôgic, lòng say mê nghiên cứu khoa học. Thông qua đó lôi cuốn học sinh vào hoạt động thực tiễn.
	- Khi tiến hành cho học sinh hoạt động theo nhóm sẽ giúp cho các em rèn luyện kĩ năng hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ, đây là năng lực rất cần thiết để các em có điều kiện học tập và trao đổi lẫn nhau để giải quyêt các vấn đề giáo viên yêu cầu. Đây là một trong những yếu tố góp phần đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh ở nhà trường hiện nay. Không những thế nó còn giúp các em có được những kĩ năng cơ bản tránh bở ngỡ khi tiếp xúc với môi trường mới.
	2.3.3. Thi làm và sử dụng đồ dùng học tập.
- Yêu cầu đồ dùng học tập tự làm dự thi: 
+ Tranh ảnh, sơ đồ, biểu bảng...
+ Mô hình, mẫu vật, tiêu bản...
- Tiêu chuẩn về sản phẩm dự thi:
+ Phù hợp với nội dung chương trình học tập
+ Đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học, tính thẩm mỹ.
+ Sử dụng thuận tiện, an toàn, hiệu quả.
+ Đảm bảo chất lượng và độ bền để có thể sử dụng nhiều lần.
- Đánh giá: GV tổ Sinh cùng đánh giá đồ dùng học tập tự làm của các em.
- Lựa chọn những đồ dùng đẹp, sáng tạo có tính ứng dụng cao để

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_su_dung_mau_vat_nham_nang_cao_chat_luong_gi.doc