SKKN Rèn kỹ năng làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh THPT trường THPT Hoằng Hóa

SKKN Rèn kỹ năng làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh THPT trường THPT Hoằng Hóa

Cảm thụ văn học là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Mục đích của cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm khơi dậy, bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả. Muốn cảm thụ được người đọc phải tri giác, liên tưởng, tưởng tượng thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản, thể n ghiệm giá trị tinh thần và hứng thú với sắc điệu thẩm mỹ của nó. Khi đến với văn bản văn học bằng cả trí tụê và tình cảm, cả nhận thức và kinh nghiệm người đọc sẽ mở được cánh cửa thực sự để đi vào thế giới của nghệ thuật. Cảm thụ văn học là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Bản chất của cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm khơi dậy bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả. Do vậy, rèn kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh nhất là học sinh giỏi văn thông qua kiểu bài so sánh hiện đang có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

doc 19 trang thuychi01 4570
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn kỹ năng làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh THPT trường THPT Hoằng Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TIÊU ĐỀ
TRANG
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1
1. Mục đích của SKKN
2
2. SKKN với các giải pháp đã trình bày có gì khác, mới..
3
3. Những đóng góp của SKKN để nâng cao chất lượng
4
PHẦN II: NỘI DUNG
5
Chương I: Cơ sở khoa học của SKKN
5
1. Cơ sở lý luận của SKKN
5
2. Cơ sở thực tiễn của SKKN
7
Chương 2: Thực trạng vấn đề mà SKKN đề xuất
9
1. Về phía giáo viên
9
2. Về phía học sinh
9
Chương 3: Những giải pháp mang tính khả thi
10
1. Giải pháp thứ 1
10
2. Giải pháp thứ 2
11
3. Giải pháp thứ 3
14
 Chương 4 : Kiểm chứng các biện pháp đã triển khai
16
1. Kiểm chứng
16
2. Kết quả kiểm chứng
21
3. Phân tích kiểm chứng
21
PHẦN III: KẾT LUẬN
22
1. Những vấn đề quan trọng nhất của SKKN
22
2. Hiệu quả, tác dụng, ứng dụng
22
3. Ý kiến với các cấp quản lý
23
PHẦN IV: PHỤ LỤC
25
Tài liệu tham khảo
25
Tư liệu minh họa
26
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Cảm thụ văn học là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Mục đích của cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm khơi dậy, bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả. Muốn cảm thụ được người đọc phải tri giác, liên tưởng, tưởng tượng thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản, thể nghiệm giá trị tinh thần và hứng thú với sắc điệu thẩm mỹ của nó. Khi đến với văn bản văn học bằng cả trí tụê và tình cảm, cả nhận thức và kinh nghiệm người đọc sẽ mở được cánh cửa thực sự để đi vào thế giới của nghệ thuật. Cảm thụ văn học là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Bản chất của cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm khơi dậy bồi dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả. Do vậy, rèn kỹ năng cảm thụ văn học cho học sinh nhất là học sinh giỏi văn thông qua kiểu bài so sánh hiện đang có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1. Mục đích của SKKN
1.1.Đáp ứng được yêu cầu của xu hướng đề thi hiện nay.
Gần đây trong đề thi tuyển sinh đại học và cao đẳng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ở câu nghị luận văn học 5 (điểm) thường xuất hiện dạng đề so sánh. Bên cạnh đó các kỳ thi học sinh giỏi các cấp cũng rất chú trọng dạng đề này. Vì vậy: “Rèn kỹ năng làm kiểu bài so sánh văn học cho học sinh THPT trường THPT Hoằng Hóa” là giúp thầy cô và các em đáp ứng tốt yêu cầu của xu hướng ra đề thi hiện nay trong việc ôn luyện và làm bài kiểm tra, bài thi.
1.2.Giúp giáo viên dễ dàng phân loại được học sinh
So sánh văn học là một trong những dạng đề khó nhưng rất hay và phù hợp với mục đích tuyển chọn và phân loại học sinh. Nên “Rèn kỹ năng so sánh văn học cho học sinh THPT Hoằng Hóa” còn giúp cho giáo viên trường THPT Hoằng Hóa đánh giá đúng năng lực học sinh, nhất là những học sinh có năng lực cảm thụ tốt, tư duy khái quát cao. 
1.3.Nâng cao năng lực cảm thụ của học sinh
“Rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh THPT Hoằng Hóa ”cũng là một bước đổi mới trong kiểm tra thi cử, tránh được sự nhàm chán của lối văn theo mẫu (bởi không hề có sẵn) và kiểm tra được một cách khá toàn diện những kĩ năng và kiến thức cần có của học .
Với dạng đề này, học sinh có điều kiện bộc lộ sự tinh tế trong cảm nhận (có thể nhận ra được những nét khác biệt dù rất nhỏ, rất mơ hồ) sự sắc sảo trong đối chiếu (khả năng tách đối tượng thành những bình diện nhỏ để so sánh) sự chắc chắn trong kiến thức (trong việc huy động kiến thức văn học sử, lí luận văn họcđể đánh giá, lí giá). Vì thế kiểu bài này sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ đáng kể cho học sinh. Nó đòi hỏi học sinh vừa phải có năng lực cảm thụ vừa có năng lực khái quát tổng hợp.
Cảm thụ văn học trong thế đối sánh là một biên pháp hữu hiệu để vừa nâng cao năng lực cảm thụ văn chương, vừa nâng cao tri thức và bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh, giúp các em có khả năng cảm thụ sâu sắc tác phẩm văn chương, góp phần đảm bảo tính nghệ thụât đặc thù của môn ngữ văn trong trường phổ thông.
1.4.Khơi gợi lòng yêu thích và say mê tìm tòi, khám phá môn Ngữ văn của các em học sinh trường tHPT Hoằng Hóa:
Để làm tốt dạng bài so sánh văn học, học sinh cần phải trang bị rất nhiều kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi học sinh phải có một quá trình tích luỹ cộng với lòng yêu thích và say mê tìm tòi, khám phá môn Ngữ văn. Chính điều đó đã thắp lên ngọn lửa của sự đam mê khiến các em ngày càng thích thú và gắn bó với môn học Ngữ văn hơn.
2.SKKN với các giải pháp được trình bày có gì khác, mới so với giải pháp cũ trước đây.
Ở trường THPT Hoằng Hóa, các thầy cô rất tích cực viết SKKN nhưng sáng kiến bàn về việc: “Rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh THPT Hoằng Hóa” thì quả thật từ trước đến nay chưa có ai đề cập đến. Đây là sáng kiến đầu tiên của tổ văn Trường THPT Hoằng Hóa . Vì vậy, những giải pháp mà người viết đưa ra ở đây thực sự vẫn còn rất mới.
Qua khảo sát các tác giả tác phẩm trong chương trình THPT và những đề thi đại học, cao đẳng, người viết đưa ra một vài biện pháp rèn kĩ năng so sánh văn học. Người viết chỉ xin đưa ra một vài kinh nghiệm tạm coi là sáng kiến về việc “Rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh THPT Hoằng Hóa” chủ yếu với những tác giả, tác phẩm có liên quan đến chương trình thi Đại học, Cao đẳng ở lớp 11 và 12.
3. Những đóng góp của SKKN để nâng cao chất lượng quản lí, dạy và học của ngành giáo dục nói chung và của đơn vị Trường THPT Hoằng Hóa– Tỉnh Thanh Hóa.
Giúp giáo viên định hướng, tích luỹ thêm kinh nghiệm giảng dạy, ôn tập, luyện thi Đại học, học sinh giỏi các cấp.
SKKN “Rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh THPT” chắc chắn sẽ đưa ra những vấn đề cơ bản nhất của chuyên môn, song không tránh khỏi những bất đồng quan điểm, hoặc những ý kiến bổ sung, góp ý thêm. Vì thế, SKKN còn góp phần thúc đẩy và khơi dậy phong trào học hỏi, tìm tòi, sáng tạo của các thầy các cô tổ Văn.
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.Cơ sở lí luận
1.1.Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì “so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc sự hơn kém”.
Theo Từ điển Tu từ - phong cách học – thi pháp học của tác giả Nguyễn Thái Hoà (NXB Giáo dục) thì “so sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người nghe”.
Như vậy, so sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn diện, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế đời sống , so sánh trở thành một thao tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức, đánh giá của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.
1.2.Các kiểu bài so sánh
1.2.1.So sánh ở cấp độ toàn bộ tác phẩm
Đây là trường hợp hai tác phẩm trọn vẹn được yêu cầu phân tích, đối sánh với nhau. Đó có thể là tác phẩm thơ hoặc tác phẩm thuộc thể loại khác. Tuy nhiên, đây là một dạng đề bài có biên độ so sánh khá rộng nên có lẽ sẽ không xuất hịên thường xuyên. Thường thì đối tượng so sánh là các bài thơ ngắn.
Ví dụ : Anh/chị hãy phân tích, so sánh bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và đoạn trích Đất nước (trích Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm
1.2.2.So sánh ở cấp độ đoạn thơ, đoạn văn.
Ví dụ : Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
“Còn xa lắm mới tới cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước rÐo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó giống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu vừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân).
“Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” (Ai đã đặt tên cho dòng sông –Hoàng Phủ Ngọc Tường).
1.2.3.So sánh ở cấp độ các vấn đề nội dung tư tưởng của tác phẩm (hoặc của đoạn thơ, đoạn văn).
Những đề văn thuộc dạng này có thể yêu cầu phân tích, so sánh các phương diện, nội dung tư tưởng như: tư tưởng hiện thực, tư tưởng nhân đạo, chủ nghĩa yêu nước
Ví dụ: Cảm hứng quê hương đất nước trong các bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và đoạn trích Đất nước (trích Trường ca mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.
1.2.4. So sánh ở cấp độ các vấn đề hình thức nghệ thuật của tác phẩm (hoặc của đoạn thơ, đoạn văn)
Đề bài có thể yêu cầu phân tích, đối sánh các phương diện hình thức nghệ thuật như nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn từvà cũng có thể là toàn bộ các yếu tố thuộc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Ví dụ : Anh/chị hãy phân tích, so sánh nghệ thụât thể hiện tình yêu trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính và bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
1.2.5.So sánh ở cấp độ hình tượng
Có thể là hình tượng nhân vật, hình tượng thiên nhiên, hình tượng cái “tôi” trữ tình hoặc một hình tượng nào đó trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Ví dụ : Phân tích, so sánh nhân vật nữ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Vợ nhặt của Kim Lân, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
1.2.6.So sánh ở cấp độ chi tiết.
Dạng đề này thường hướng đến các chi tiết trong tác phẩm văn xuôi
Ví dụ: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp Thị Nở (Chí Phèo-Nam Cao) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi” mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ-Tô Hoài).
1.3. Yêu cầu của thao tác so sánh:
- So sánh phải dựa trên cùng một tiêu chí, chung một bình diện để tránh khập khiễng.
- So sánh trên nhiều cấp độ: nhỏ nhất là giữa các chi tiết, từ ngữ, hình ảnh; lớn hơn là các nhân vật, sự kiện, tác phẩm, tác giả và phong cách
- So sánh thường đi đôi với nhận xét, đánh giá thì so sánh đó mới trở nên sâu sắc.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế những năm gần đây, các kỳ thi học sinh giỏi cũng như thi đại học môn Văn, hầu như năm nào câu nghị luận văn học cũng có so sánh văn học. Mục đích so sánh là để thấy được chỗ giống nhau, nhằm soi sáng mặt kế thừa truyền thống và mặt đổi mới của tác phẩmở nhiều thời điểm khác nhau. Có khi so sánh chỉ để làm nổi bật một vài chi tiết, hình ảnh, từ ngữ nào đó của tác phẩm.
2.1.Đối với đề thi Đại học
Đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2010:
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử, Ngữ văn 11)
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng giang – Huy Cận, Ngữ văn 11)
Đề thi tuyển sinh đại học khối D năm 2012:
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh “Đột nhiên Thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua” (Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, Tr.155)
Truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” (Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, Tr.32).
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
2.2.Đối với đề thi học sinh giỏi quốc gia:
Bảng A-2006: Chủ nghĩa nhân đạo là một trong những truyền thống lớn nhất của văn học Việt Nam. Qua việc phân tích, so sánh các tác phẩm Tự tình (Hồ Xuân Hương), Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và Đời thừa (Nam Cao), anh/chị hãy làm rõ những đóng góp riêng , độc đáo của từng tác phẩm cho truyền thống này.
Năm 2009: Thơ nữ viết về tình yêu thường thể hiện sâu sắc bản lĩnh và ý thức về hạnh phúc của chính người phụ nữ. Hãy phân tích và so sánh bài thơ Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương và Sóng của Xuân Quỳnh để làm rõ nét chung và nét riêng trong tâm sự về tình yêu của hai nữ tác giả ở hai thời đại khác nhau.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1.Về phía giáo viên
Trong thực tế giảng dạy hiện nay, giáo viên gặp phải không ít những khó khăn, thử thách.
1.1.Tư liệu dạy học khan hiếm
Trong phân phối chương trình, kiểu bài so sánh văn học không hề được đưa vào nên chưa bao giờ nó được xuất hiện trong tiết Làm văn như một bài học độc lập tương đương như những dạng bài khác hoặc được giới thiệu qua các tài liệu tự chọn của Bộ Giáo dục. Vì vậy, việc “Rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh THPT Hoằng Hóa” gặp phải không ít khó khăn, nhất là tư liệu dạy học không có.
1.2.Không có tiết cụ thể trong phân phối chương trình
Do phân phối chương trình và thời gian trên lớp hạn chế, nên hầu hết giáo viên chỉ chú ý đi sâu, đào kĩ vào các vấn đề trung tâm của tác phẩm, không có điều kiện so sánh, đối chiếu tác phẩm này với tác phẩm kia, nếu có cũng chỉ mang tính chất liên hệ, mở rộng chứ không có thời gian để đối chiếu ở từng phương diện cụ thể.
2.Về phía học sinh
2.1.Phần lớn học sinh còn lúng túng, chưa có kĩ năng so sánh văn học
So sánh tác phẩm văn học đòi hỏi học sinh phải tổng hợp nhiều kĩ năng. Nên hầu hết học sinh đều tỏ ra lúng túng, và rất ngại làm đề so sánh tác phẩm văn học do chưa có kĩ năng đối sánh văn bản.
2.2.Nhiều học sinh không thích học văn
Do tâm lí thi khối C được ít trường và sau này khó xin việc làm, còn thi khối D thì điểm cao. Vì thế thực tế các em chưa quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến môn Văn. Do vậy, việc rèn kĩ năng so sánh văn học cho học sinh ở trên lớp cũng gặp phải những khó khăn, bởi không phải em nào cũng hào hứng.
CHƯƠNG 3
 NHỮNG GIẢI PHÁP MANG TÍNH KHẢ THI
Trên đây là một số vấn đề về thực trạng dạy so sánh văn học và rèn luyện kĩ năng phân tích, cảm thụ văn học bằng phương pháp đối sánh có thể vận dụng trong chương trình phổ thông trung học. Nhân đây, người viết xin đưa ra một số giải pháp xuất phát từ thực tiễn giảng dạy với mục đích gợi ý, trao đổi, xác lập phương hướng để đồng nghiệp tham khảo.
1.Giải pháp 1: Nhóm các tác phẩm có chung đề tài, chủ đề.
1.1.Nhóm các tác phẩm
GV có thể hướng dẫn HS tập hợp các tác phẩm đã học thành những chủ đề lớn, nhỏ: Đất nước, tình yêu, người lính, số phận con người, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ
Có thể nhóm một số tác phẩm theo chủ đề như sau:
Cảm hứng về nhân dân, đất nước: Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), Việt Bắc (Tố Hữu)
Cảm hứng nhân đạo: Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chí Phèo (Nam Cao), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân)
Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn: Tây tiến (Quang Dũng), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ:Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu).
1.2. Tự thành lập đề
Sau khi nhóm các tác phẩm theo chủ đề, đề tài, GV nên yêu cầu học sinh tự thành lập các đề văn cảm thụ trong thế đối sánh (thiết lập ngân hàng đề).
Từ đó, các em sẽ thấy rằng không thể tuỳ tiện ngẫu nhiên đặt các tác phẩm trong thế đối sánh. Hai đối tượng nên cùng loại (gần nhau) để nhận thức được những điều khác biệt. Tuy nhiên cần xác định được điểm chung, tiêu chí và mục đích của sự đối sánh trước khi ra đề, sẽ tránh sự khập khiễng, gượng ép khi đặt các đối tượng cảm thụ quá khác xa nhau trong một đề văn.
2.Giải pháp 2: Xây dựng phương pháp làm bài so sánh văn học
2.1.Rèn kĩ năng phân tích đề:
Phân tích đề là một trong những khâu quan trọng quyết định chất lượng bài văn. Vì vậy, giúp học sinh có được kĩ năng này cũng là nhiệm vụ của giáo viên. Để có được kĩ năng này, giáo viên cần trang bị cho học sinh những kĩ năng cụ thể như:
2.1.1.Nhận diện, phân biệt đề:
Trước hết, học sinh cảm nhận biết đề văn cảm thụ trong thế đối sánh là:
1-Những đề nêu rõ yêu cầu phân tích và so sánh, thấy được nét chung, riêng
Ví dụ : Cùng viết về đất nước và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng ba tác phẩm: Bên kia Sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Việt Bắc của Tố Hữu là ba thế giới hình tượng riêng, ba giọng điệu trữ tình riêng, chứa đựng những kí thác riêng của mỗi hồn thơ. Anh/chị hãy phân tích ba bài thơ trong quan hệ đối sánh để chỉ ra nét riêng của mỗi tác phẩm.
2-Những đề yêu cầu cảm nhận từ hai đối tượng trở lên trong cùng một đề văn
Ví dụ : Cảm nhận của Anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ Nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu). (Đề thi Đại học khối C -2009)
Chú ý: Học sinh cũng cần phân biệt: Dạng đề tổng hợp và dạng đề so sánh khi cùng có hai tác phẩm cần nghị luận trở lên trong một đề văn. Ví dụ:
Đề 1: Cảm hứng về đất nước là một trong những cảm hứng sâu đậm của văn học Việt Nam sau CMT8-1945. Qua bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề 2: Cảm hứng về đất nước là một cảm hứng chủ đạo trong thơ Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Hãy làm rõ những nét riêng trong nội dung và cách biểu hiện cảm hứng ấy trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Nhận xét: Tuy cùng ngữ liệu: 2 tác giả, 2 bài thơ, cùng lời dẫn nhưng mục đích của hai đề rất khác nhau. Đề 1 là đề tổng hợp - nhằm làm nổi bật cảm hứng cơ bản của giai đoạn văn học (yếu tố so sánh chủ yếu để thấy cái chung), đề 2 là đề đối sánh nhằm nổi bật sự khám phá sáng tạo riêng của từng bài thơ.
2.1.2.Xác định yêu cầu của đề:
Trước hết, cần xác định đối tượng cảm thụ-đối sánh, phạm vi kiến thức cần huy động sao cho đúng và trúng.
Muốn vậy cần rèn cho các em thói quen đọc kĩ đề, gạch chân những từ quan trọng. Có thể đưa ra một loạt đề cảm thụ trong thế đối sánh cùng về hai tác giả, tác phẩm, chỉ thay đổi cách hỏi, câu lệnh để rèn cho học sinh kĩ năng xác định trọng tâm vấn đề.
2.1.3.Xác định thao tác nghị luận cơ bản:
Một bài văn cần phối hợp rất nhiều thao tác nghị luận song cần lưu ý học sinh xác định đâu là thao tác nghị luận chính, đâu là thao tác nghị luận bổ trợ. Trong bài cảm thụ trong thế đối sánh thao tác cơ bản là cảm thụ (phân tích) và đối sánh (so sánh). Có nhiều học sinh chỉ nặng về đối sánh mà quên mất cảm thụ, có học sinh thì ngược lại. Xác định được thao tác chính học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống luận điểm hợp lí và khoa học cho bài viết.
2.2. Rèn kĩ năng lập ý - lập dàn ý;
2.2.1.Các bước lập ý:
Bước 1: Trước hết, cần phân tích đối tượng thành nhiều bình diện để cảm thụ đối sánh. Trên đại thể, hai bình diện bao trùm là nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Tuỳ từng đối tượng được yêu cầu so sánh mà có cách chia tách ra các khía cạnh nhỏ khác nhau. 
Bước 2: Nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác, có tiêu chí so sánh rõ ràng, diễn đạt thật nổi bật, rõ nét, tránh chung chung, mơ hồ.
Bước 3: Đánh giá, nhận xét, lí giải nguyên nhân của sự giống và khác nhau. Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn rõ ràng, nền lí luận vững chắc, kiến thức văn học sâu rộng, tránh những suy diễn tuỳ tiện, chủ quan, thiếu sức thuyết phục.
2.2.2.Cách thức trình bày ý:
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích, thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi.
Phần mở bài:
- Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
Điều quan trọng là dẫn dắt từ vấn đề chung của hai yếu tố cần cảm thụ, tránh giới thiệu lần lượt từng yếu tố ngay từ phần mở đầu đã không tạo nên sự liên kết chặt chẽ.
Phần thân bài: Phân tích cảm thụ hai đối tượng trong thế đối sánh:
Cách trình bày, triển khai ý, thông thường có hai cách là n

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_ky_nang_lam_kieu_bai_so_sanh_van_hoc_cho_hoc_sinh_t.doc